Chu kỳ của dự án
Khái niệm. Chu kỳ dự án là các thời kỳ và các giai đoạn mà một dự án đầu tư cần phải trải qua, bắt đầu từ thời điểm hình thành ý tưởng về đầu tư cho đến thời điểm kết thúc hoạt động đầu tư. Nội dung của ...
Khái niệm.
Chu kỳ dự án là các thời kỳ và các giai đoạn mà một dự án đầu tư cần phải trải qua, bắt đầu từ thời điểm hình thành ý tưởng về đầu tư cho đến thời điểm kết thúc hoạt động đầu tư.
Nội dung của chu kỳ dự án.
Thông thường chu kỳ dự án bao gồm các giai đoạn sau:
Xác định dự án.
Xác định dự án là quá trình tìm hiểu các cơ hội đầu tư nhiều hứa hẹn, mà các cơ hội đó được hướng tới để giải quyết được các vấn đề cản trở việc khai thác tiềm năng phát triển đang có. Xác định dự án cần được tiến hành trong khuôn khổ chung về phân tích lĩnh vực và phân tích không gian. Điều này đảm bảo rằng đó là những dự án có khả năng tốt nhất có thể thực hiện phù hợp với hoàn cảnh.
Xây dựng dự án.
Các dự án vượt qua giai đoạn đầu thì tiếp tục phải được chuẩn bị và phân tích trước khi kinh phí đưa vào sử dụng. Đối với các dự án lớn, xây dựng dự án được tiến hành theo 2 bước: nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. Còn đối với các dự án nhỏ, có thể bỏ qua nghiên cứu tiền khả thi bắt tay ngay vào nghiên cứu khả thi.
Mục đích của nghiên cứu tiền khả thi là giúp đỡ chủ đầu tư thấy rõ các điều kiện cơ bản của đầu tư để quyết định hoặc là tiếp tục nghiên cứu dự án, hoặc là từ bỏ dự án, hoặc đặt vấn đề xác định lại dự án.
Nghiên cứu tiền khả thi trả lời các vấn đề sau:
- Cầu của thị trường trong tương lai và sự thiếu hụt của nó.
- Xác định được khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào.
- Dự kiến lựa chọn địa điểm bố trí dự án.
- Sơ bộ hình dung được toàn bộ hoạt động của dự án.
- Dự tính chi phí và lợi ích của dự án.
Kết quả nghiên cứu tiền khả thi là bản dự án tiền khả thi với các nội dung cơ bản nêu trên.
Sau nghiên cứu tiền khả thi chúng ta chuyển sang giai đoạn nghiên cứu khả thi.
Nghiên cứu khả thi là giai đoạn mà trong đó dự án được nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, sâu sắc trên tất cả các khía cạnh thị trường, công nghệ, tài chính, kinh tế, môi trường, quản trị... với nhiều phương án khác nhau.
Thẩm định và ra quyết định đầu tư.
Đây là giai đoạn được biết đến nhiều nhất trong chu kỳ dự án và là trách nhiệm quan tâm chính của những người cho vay. Mục đích của giai đoạn là xác định giá trị của dự án đã được chuẩn bị trên cơ sở các nguồn lực uỷ thác và lợi ích kỳ vọng. Nó cung cấp cơ hội để kiểm tra lại mọi khía cạnh của dự án nhằm đánh giá đề xuất dự án có hợp lý và đáng tin cậy hay không trước khi một khối lượng tiền vốn lớn được chi ra.
Trong thực tế đây là quá trình phức tạp nhằm thẩm định khả năng sống còn của dự án, nên cần thiết phải có các dịch vụ chuyên môn, hội đồng thẩm định và các chuyên gia được chỉ định. Quá trình thẩm định được xây dựng trên kế hoạch dự án, nhưng có thể cũng cần thêm thông tin mới nếu như các nhà chuyên môn trong hội đồng thẩm định cảm thấy một số số liệu còn có vấn đề hoặc các giả định trong dự án không hợp lý. Nếu hội đồng thẩm định kết luận kế hoạch dự án là đáng tin cậy thì dự án đầu tư có thể thực hiện được.
Công tác thẩm định dự án thường thẩm định bốn khía cạnh cụ thể: kĩ thuật, tổ chức, tài chính và kinh tế.
Thẩm định khía cạnh kĩ thuật: Phân tích kĩ thuật liên quan chủ yếu đến các yếu tố đầu vào của dự án như quy mô hiện vật, bố trí mặt bằng, địa điểm của các phương tiện, công nghệ được sử dụng, các chi phí và quan hệ của chúng đến vấn đề kĩ thuật hoặc các số liệu được sử dụng để tính toán, những sắp xếp mua sắm, các thủ tục để nhận được dịch vụ kĩ thuật, thiết kế ảnh hưởng tiềm năng đến môi trường vật chất và con người. Những quan tâm tương tự khác của chủ dự án liên quan đến việc cung cấp đầy dủ và đáng tin cậy về kĩ thuật cho dự án, đầu ra của dự án.
Thẩm định các khía cạnh tổ chức: mục tiêu của nhiều dự án không đơn thuần chỉ là bổ sung các tài sản hiện vật và vốn mà còn tạo ra và nâng cao năng lực con người. Tổ chức để quản lý và duy trì các công trình phát triển. Thẩm định về tổ chức có liên quan đến một loạt các câu hỏi nhằm làm rõ việc đủ hoặc thiếu khả năng nhân lực và trình độ tổ chức ở đó dự án được thực hiện. Đây có thể là điều thách thức nhất trong thành công của toàn bộ dự án. Có thể không thiếu dự án được chuẩn bị tốt về kĩ thuật và tài trợ (đây là đầu vào cứng). Nhưng hiếm có dự án không bị khiếm khuyết ở mức độ nào đó do thiếu nhân lực và trình độ tổ chức (đây là các đầu vào mềm). Việc ước lượng và xem xét sự nhạy cảm của khía cạnh tổ chức và các điều kiện của địa phương là cần thiết giúp tránh các hậu quả đáng tiếc. Khi thẩm định về khía cạnh tổ chức, phải xem xét các câu hỏi liên quan đến các khía cạnh về văn hoá xã hội và tổ chức của dự án như: Khi thiết kế dự án có tính đến phong tục và văn hoá của những bên tham gia và hưởng lợi của dự án không? Dự án có phá vỡ cách làm ăn quen thuộc của những người hưởng lợi hay không? Hệ thống thông tin liên lạc nào hiện có để tuyên truyền và hướng đẫn kĩ năng mới cho những người hưởng lợi? Dự án có phù hợp với cơ cấu tổ chức của đất nước và của địa phương hay không? Tổ chức hành chính của dự án liên quan với các tổ chức hiện có của địa phương như thế nào? Các đề xuất về tổ chức của dự án phải là tổ chức có thể quản lý được.
Thẩm định các khía cạnh tài chính và kinh tế: Hai khía cạnh này trong thẩm định dự án tạo nên phần chính của đầu tư và thẩm định dự án. Thẩm định tài chính liên quan đến các câu hỏi về khả năng cung cấp về vốn đầu tư (cơ cấu vốn và nguồn vốn), kết quả về mặt tài chính của dự án, khả năng của người đi vay, thủ tục người nhận được đầu tư và chi phí hoạt động. Ngược lại thẩm định kinh tế xem xét khả năng và giá trị của dự án trên quan điểm rộng hơn, đó là sự đóng góp của dự án cho tổng thể hoặc phúc lợi kinh tế quốc dân.
Triển khai thực hiện dự án.
Một dự án được cho là đáng tin cậy ở giai đoạn thẩm định sẽ đủ điều kiện để thực hiện. Việc thực hiện dự án trong thực tế khá phức tạp do nhiều vấn đề không dự báo được trước. Do đó, ở giai đoạn này đòi hỏi phải có sự linh hoạt để đảm bảo thực hiện thành công dự án. Quá trình thực hiện có thể kéo dài và phải gia hạn thêm (phụ thuộc vào bản chất và quy mô của dự án và giai đoạn thời gian cần mở rộng). Thường thường thực hiện dự án được xem xét qua 3 giai đoạn: đầu tư, phát triển và hoạt động. Có những thay đổi đáng kể về độ dài thời gian của từng giai đoạn giữa các dự án khác nhau. Như vậy, việc thực hiện dự án cũng là giai đoạn then chốt trong chu kỳ dự án.
Kiểm soát và đánh giá dự án.
Trong quá trình thực hiện dự án, cần có sự giám sát liên tục nhằm đảm bảo mọi công việc được tiến hành theo đúng kế hoạch. Kiểm soát thường đòi hỏi có hệ thống thông tin gắn liền với hệ thống quản lý để có thể kiểm tra được tiến độ của theo kế hoạch và các mục tiêu đã đặt ra.
Khi dự án hoàn thành cần thiết đánh giá dự án nhằm cho phép các nhà phân tích đánh giá được hình thức và kết quả dự án. Đây là giai đoạn cuối cùng trong chu kỳ dự án. Đánh giá không giới hạn cho các dự án đã hoàn thành mà nó là công cụ quản lý quan trọng đối với các dự án đang thực hiện và việc đánh giá chính thức có thể được thực hiện nhiều lần trong đời một dự án. Đánh giá có thể được thực hiện khi dự án có trục trặc, coi đây như là bước đầu tiên trong việc cố gắng lập lại kế hoạch. Việc đánh giá chi tiết sẽ được tiến hành trước bất cứ cố gắng nào trong thực hiện kế hoạch tiếp theo của dự án. Và đánh giá cuối cùng được thực hiện khi dự án được thực hiện khi dự án hoàn thành cũng như trong quá trình hoạt động của nó. Khi đánh giá cần xem xét dự án có thành công trong việc duy trì mục tiêu đặt ra hay không? Nếu không thì do nguyên nhân cụ thể nào? Khâu thiết kế hoặc quá trình thực hiện dự án sẽ được hoàn thiện như thế nào?
Đánh giá giúp đưa ra những điểm mạnh, điểm yếu, thành công và thất bại của dự án. Các kết quả sẽ có giá trị trong kế hoạch hoá các dự án trong tương lai và có thể tránh lặp lại các “khuyết điểm cũ”.
Sau khi xác định được dự án thì cần thực hiện xây dựng dự án tiền khả thi và dự án khả thi. Nói chung, dự án tiền khả thi và dự án khả thi hoàn toàn giống nhau về nội dung. Như vậy ta chỉ cần xem xét cách xây dựng của dự án khả thi. Tuy các dự án khác nhau của các ngành, các lĩnh vực khác nhau có nội dung cụ thể khác nhau nhưng về cơ bản đều bao gồm những nội dung sau:
Căn cứ xây dựng dự án.
Muốn dự án có thể được thực hiện thì chủ đầu tư phải xem xét các điều kiện phù hợp từ pháp lý đến thực tế xem dự án có thể thực hiện được không. Phải dựa vào vào căn cứ pháp lý như luật, các văn bản pháp lý, các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các thoả thuận… để xem dự án có đúng pháp luật hay không, có phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng như phải căn cứ vào thực tế xem năng lực, mục tiêu, bối cảnh hình thành của dự án có thể thực hiện dự án được hay không.
Xác định các nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình hình thành và thực hiện dự án.
Sản phẩm đầu ra của dự án.
Giới thiệu sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm (dịch vụ) đã được lựa chọn đưa vào sản xuất kinh doanh theo dự án như: tên sản phẩm (dịch vụ), các đặc điểm chủ yếu (dấu hiệu phân biệt với các sản phẩm cùng chức năng khác), tính năng, công dụng, qui cách tiêu chuẩn chất lượng, hình thức bao bì đóng gói đồng thời vị trí của nó trong danh mục ưu tiên của Nhà nước.
Thị trường và sản phẩm của dự án.
Các luận cứ về thị trường sản phẩm (dịch vụ) được chọn: nhu cầu hiện tại, dự báo cầu trong tương lai, các kênh đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai, các dự báo về cạnh tranh, các đối thủ chủ yếu trong cạnh tranh, các yếu tố chính trong cạnh tranh (giá cả, chất lượng, phương thức cung cấp, phương thức thanh toán...)
Dự kiến mức độ thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của dự án trong suốt thời kỳ hoạt động (địa bàn, nhóm khách hàng, khối lượng tiêu thụ…)
Các giải pháp thị trường: chiến lược sản phẩm, dịch vụ, chiến lược giá cả và lợi nhuận, biện pháp thiết lập hoặc mở rộng quan hệ với thị trường dự kiến, quảng cáo và xúc tiến bán hàng.
Công nghệ và kĩ thuật của dự án.
Mô tả các thế hệ công nghệ và lý giải tại sao chọn công nghệ được mô tả trong dự án: các đặc trưng kĩ thuật cơ bản của công nghệ, sơ đồ các công đoạn chủ yếu của quá trình công nghệ.
Đánh giá tính hiện đại, tính phù hợp, các đặc điểm ưu việt và các hạn chế của công nghệ đã chọn (so sánh với các phương án công nghệ khác qua các chỉ tiêu: qui cách chất lượng sản phẩm, mức tiêu hao nguyên vật liệu, chi phí, giá cả, an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, chống ô nhiễm môi trường...)
Sự cần thiết chuyển giao công nghệ theo hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nguồn cung cấp công nghệ và thiết bị, danh mục trang thiết bị và giá cả của chúng, yêu cầu về bảo dưỡng, sửa chữa, phụ tùng thay thế...
Khả năng đảm bảo và phương thức cung cấp các yếu tố đầu vào cho dự án.
Mỗi một dự án yêu cầu phải xác định được nhu cầu về nguyên liệu, nguồn lực… tức là nhu cầu về yếu tố đầu vào. Đồng thời cũng phải xác định được khả năng cung cấp đầu vào trên với phương tiện gì. Xác định chi phí cho các yếu tố đầu vào đó. Như vậy bước này rất cần thiết phải xác định nhu cầu về nguyên liệu, năng lượng, phụ tùng và các yếu tố đầu vào khác dựa trên các định mức kinh tế kĩ thuật tương xứng với công nghệ đã lựa chọn. Xác định nguồn cung cấp các đầu vào trên. xác định phương thức cung cấp nhằm đảm bảo cung cấp ổn định, đúng thời gian, đúng chủng loại, đúng chất lượng các đầu vào... Xác định nhu cầu vận tải và các phương án đáp ứng. Xác định chi phí cho từng yếu tố đầu vào và cho tất cả các yếu tố đầu vào.
Đặc điểm bố trí dự án.
Luận chứng phương án địa điểm: mô tả địa điểm (nằm ở đơn vị hành chính nào? toạ độ, địa lý nào?). Các số liệu cơ bản về địa điểm lựa chọn (diện tích, gianh giới). Các điều kiện về kết cầu hạ tầng của địa phương. Môi trường về xã hội, dân cư, văn hoá. Số liệu về địa chất, công trình.
So sánh các phương án địa điểm, từ đó lựa chọn địa điểm tốt nhất phù hợp với yêu cầu của dự án. Sơ đồ khu vực địa điểm.
Quy mô xây dựng và các hạng mục công trình.
Tính toán nhu cầu diện tích mặt bằng cho các bộ phận sản xuất, phục vụ sản xuất, kho tàng...
Bố trí các hạng mục xây dựng.
Bố trí kết cấu hạ tầng trong khuôn viên của dự án.
Sơ đồ tổng mặt bằng.
Khái toán các hạng mục xây dựng.
Tổ chức sản xuất kinh doanh
Bất kỳ một dự án nào khi được thực hiện cũng đều phải có cách tổ chức sản xuất kinh doanh. Việc tổ chức bộ phận trực tiếp sản xuất phải hợp lý bởi đây là khâu tham gia trực tiếp tạo ra sản phẩm (dịch vụ), vậy phải bố trí tổ chức như thế nào để khâu này hoạt động phối hợp một cách nhịp nhàng từ đầu vào cho đến đầu ra. Nhưng để có nguyên liệu để sản xuất rất cần phải có nguồn cung ứng, cho nên cũng phải tổ chức hệ thống cung ứng kịp thời, đảm bảo chất lượng. Việc quan trọng nữa là sau khi sản xuất ra sản phẩm (dịch vụ) thì phải tiêu thụ sản phẩm đó như thế nào để đem lại doanh thu cho công ty. Tổ chức hệ thống tiêu thụ đặc biệt cần thiết bảo đảm dự án kinh doanh hiệu quả. Nhưng tất cả những khâu trên muốn hoạt động được thì phải có những nhà quản lý, tổ chức bộ máy quản lý phù hợp, ăn khớp nhằm điều hành hoạt động của dự án hiệu quả nhất.
Nhu cầu và nguồn cung cấp nhân lực
Xác định nhu cầu nhân lực trong từng thời kỳ dự án: nhân lực theo khu vực (trực tiếp, gián tiếp, quản trị, điều hành), nhân lực theo trình độ (lành nghề, bán lành nghề, không lành nghề). Nguồn cung cấp nhân lực, nguyên tắc tuyển dụng, đào tạo...Xác định chi phí cho nhân công trong từng giai đoạn của dự án.
Tổ chức và tiến độ thực hiện dự án.
Khái quát về phương án tổ chức thực hiện, dự kiến đơn vị dự thầu, phương thức giao thầu, thời điểm thực hiện đầu tư (khởi công, hoàn thành) và tiến độ thực hiện các công việc chủ yếu. Xác định biểu đồ thực hiện các công việc chủ yếu. Tiến độ rót vốn cho các công việc của dự án và kế hoạch huy động các nguồn vốn để đảm bảo tiến độ.
Phân tích tài chính của dự án.
Xác định tổng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư (vốn cố định, vốn lưu động; vốn góp, vốn vay; vốn bằng tiền và vốn bằng tài sản, đất đai...) Dự kiến chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ. Xác định doanh thu từng năm và cả đời dự án. Dự kiến lỗ lãi, dự trù kết tài sản, dự trù cân đối thu chi. Tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án.
Phân tích kinh tế dự án.
Khi phân tích lợi ích kinh tế xã hội người ta phải ước tính đến lợi ích kinh tế của dự án như giá trị gia tăng, thu ngân sách, thu ngoại tệ cho Nhà nước... và ước tính lợi ích xã hội như tạo việc làm, tăng thu nhập, bảo vệ môi trường...Tại sao phải xem xét đến vấn đề này vì mỗi một dự án tạo ra ngoài đem lại lợi ích tài chính cho chủ đầu tư mà còn phải đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì mới có khả năng thực hiện. Đồng thời với việc đánh giá lợi ích do dự án đem lại thì rất cần thiệt phải đề cập đến những ảnh hưởng xấu của dự án tới môi trường nếu có.
Đưa ra kết luận và kiến nghị.
Kết luận về khả năng thực hiện dự án, lợi ích tài chính, kinh tế, xã hội và tác động của dự án đến môi trường.
Thuận lợi và khó khăn trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án.
Kiến nghị với Nhà nước, Bộ ngành, chính quyền địa phương sở tại.