Cầu tiền
Chúng ta biết rằng mọi người giữ tiền bởi họ muốn sử dụng nó như một phương tiện trao đổi, một sự dự trữ giá trị, một đơn vị tính toán và một phương tiện trả góp. Các hộ gia đình và các nhà kinh doanh cầc bao nhiêu tiền? Nhu cầu về tiền, giống ...
Chúng ta biết rằng mọi người giữ tiền bởi họ muốn sử dụng nó như một phương tiện trao đổi, một sự dự trữ giá trị, một đơn vị tính toán và một phương tiện trả góp. Các hộ gia đình và các nhà kinh doanh cầc bao nhiêu tiền? Nhu cầu về tiền, giống như các tài sản khác, phản ánh sự trao đổi và những quyết định về sự phân bổ danh mục vố đầu tư. Một người dùng tiền (tiền mặt, tiền gửi séc và những vật thay thế tương tự khác) phần lớn là để tiến hành những thương vụ. Vì lý do đó lượng cầu về tiền phụ thuộc vào phần giá trị của thương vụ mong muốn. Hộ gia đình và nhà kimh doanh phân phối các nguồn lực của họ trên các tài sản tiền tệ và các tài sản phi tiền. Khi đưa ra những quyết định này họ tính đến lợi nhuận mong muốn trên tài sản, rủi ro, tính lỏng và những đặc tính thông tin của những tài sản đó.
Lượng tiền thực tế
Một vai trò quan trọng của đồng tiền là để giúp những giao dịch một cách dễ dàng, nó gợi ý rằng việc giữ tiền nên phụ thuộc vào giá trị giao dịch. Ví dụ: có hai cá nhân đang quyết định phân phối nguồn lực của họ, một người Mỹ và một người Đức, có sự giàu có tài sản thực sự như nhau (tính theo sức mua) và những sự thích thú như nhau. Họ cũng phải đối diện với những sự lựa chọn đầu tư với lợi nhuận mong đợi được điều chỉnh theo rủi ro, tính lỏng và thông tin. Lýý thuyết sự phân bổ danh mục vốn đầu tư cho vay hai cá nhân này nên giữ phần như nhau trong tổng nguồn lực của họ dưới dạng tiền. Những gợi ý này ám chỉ điều gì với lượng tiền danh nghĩa? Giả sử sự giàu có của người Mỹ được tính bằng USD và người Đức tính bằng DM . Cũng giả định rằng cần 1,5 DM để cân bằng với một USD trong sức mua nghĩa là giá của hàng hoá tính bằng DM thì cao hơn bằng 1,5 lần giá của hàng hoá tính bằng USD. Nếu người Đức và người Mỹ có số tài sản thực sự bằng tiền như nhau, số DM người Đức nắm giữ sẽ lớn bằng 1,5 lần người Mỹ giữ. Nói cach khác sự cân bằng tiền tệ danh nghĩa của người Đức lớn bằng 1,5 lần của người Mỹ. Vì thế cầu tiền giao dịch tỷ lệ với mức giá. Chúnh ta có thể vận dụng điều này cho toàn bộ cầu tiền trong nền kinh tế. Vào những năm 1960, mức giá cả của mỹ thấp hơn 1/4 của ngày nay.
Thật ra, để tiến hành những giao dịch ngày nay tương đương với mức năm 1960, bạn sẽ cần hơn 4 USD cho mỗi USD năm 1960. Lượng tiền danh nghĩa của bạn phải cao hơn 4 lần. Trong trường hợp người Mỹ và người Đức ( nếu không có sự thay đổi khác ) một mức giá cao hơn dẫn đến một tỷ lệ cầu tiền danh nghĩa cao hơn. bởi vì sự thay đổi trong việc giữ tiền danh nghĩa thì tỷ lệ với những thay đổi trong mức giá, chúng ta có thể tập chung vào cầu của số dư tiền tệ được điều chỉnh theo những thay đổi trong sức mua .
Nếu chúng ta gọi M là mức cung tiền và P là mức giá của nền kinh tế ( giá tính bàng USD cho một nhóm hàng hoá được lựa chọn ) lượng tiền thực tế thì bàng mức cung tiền chia cho mức giá, hoặc :
Lượng tiền thực tế = M/P
Lượng tiền thực tế thể hiện sức mua của lượng tiền hiện có.
Tốc độ và cầu lượng tiền thực tế
Tốc độ tiền biểu thị số lần bình quân mà hàng năm một USD được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế.
Chính xác hơn, tốc độ V thì bàng tổng chi tiêu mức giá, P, nhân tổng sản lượng, Y (biểu hiện số lượng của những giao dịch thực tế) chia cho số lượng tiền, M, hoặc:
V=PY/M
Ví dụ, nếu số lượng tiền là 2000 tỷ USD và GDP danh nghĩa là 6000 tỷ USD, vòng quay bằng 3, trung bình 1USD được sử dụng 3 lần mỗi năm để mua hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế.
MV=PY
Phương trình này được biết như phương trình trao đổi quy định rằng, số lượng tiền nhân với tốc độ thì bằng số chi tiêu danh nghĩa trong nền kinh tế. Sử dụng lượng giao dịch như một yếu tố quyết định của cầu tiền tệ tạo khả năng phán đoán. chúng ta sớm khẳng định rằng, để thực hiện những giao dịch hàng ngày, các hộ gia đình các nhà kinh doanh lượng tiền danh nghĩa của họ khi giá tăng. Còn về cầu tiền thực tế thì sao? khi thu nhập thực tế của các hộ gia đình và các hãng kinh doanh tăng, họ tiến hành giao dịch nhiều hơn. nói cách khác,sự mua của hộ gia đình thu nhập sẽ lớn hơn sự mua của gia đình có thu nhập thấp. Tương tự, một cửa hàng lớn với số lượng lớn với số lượng hàng bán 10 triêu USD mỗi năm sẽ có một khối lượng giao dịch về hàng hoá,về người làm thuê và những khách hàng lớn hơn hẳn cửa hàng với số lượng bán mỗi năm 10 ngàn USD chúng ta có thể khái quát hoá từ những quan sát này bằng nhận định rằng, cầu tiền tệ của dân chúng tăng theo lượng giao dịch. Trị giá tăng lượng tiền thực tế theo thu nhập thực tế chính là yếu tố ảnh hưởng đến lượng tiền thực tế. Không phải tất cả các nhà kinh tế hồi ấy đồng ýý với lập luận tốc độ ( tốc độ gia tăng )là một hằng số của FISHER. Ví dụ, một số người đã giả thiết rằng, tốc độ có thể tăng hoặc giảm ứng với những thay đổi trong thu nhập của tiền tệ và tài sản phi tiền tệ.
Những nhân tố của hệ thống thanh toán
Tốc độ được xác định một phần bằng cách thức mà những cá nhân tiến hành giao dịch, nó được gọi là những hệ thống thanh toán. Nói cách khác, nếu có nhiều những phương tiện thay thế cho tiền như thẻ tín dụng, máy trả tự động để tiến hành giao dịch, công chúng cần ít tiền mặt và tiền giữ séc để tài trợ chi tiêu hàng ngày.
Tuy vậy, tốc độ M1, PY/M sẽ tăng. mặt khác, nếu tiền trở nên phù hợp hơn cho việc tiến hành giao dịch, cong chúng sẽ cần nhiều tiền hơn để chi dùng hàng ngày. Ví dụ, nếu những công ty dùng thẻ tín dụng ấn địmh phí một USD cho mõi lần mu, bạn sẽ dùng thẻ thanh toán ít hơn khi mua hàng và sẽ mang nhiều tiền mặt hơn. vì vậy lượng tiền sẽ tang và vòng quay tiền tệ sẽ giảm. Nhưng nhân tố hệ thống thanh toán sẽ thay đổi ứng với những nhân tố ấn định sự đổi mới tài chính.
Những thay đổi của lãi suất
Những lý thuyết ban đầu về cầu tiền tệ như thuyết số lượng, không coi lãi suất như một nhân tố của cầu tiền giao dịch: Ví dụ, một người nhận trước một tờ séc 2500 USD mỗi tháng và sử dụng tổng số đó với tỷ lệ không đổi trong tháng (lượng tiền dùng đẻ giao dịch). Một giải pháp cho anh ta là phải trải chi tiêu trong suốt tháng do đó lượng tiền bình quân là 2500/2 =1250. Cuối tháng anh ta còn lại 0 USD. Khi anh ta được trả lần nữa, quá trình lại tiếp tục. Tốc độ hàng năm của tiền cho anh ta là thu nhập danh nghĩa của anh ta.
30.000 USD chia cho lượng tiền bình quân của anh ta hàng tháng 1250 USD hoặc24.Giả định số tiền trả cho anh ta không có lãi, do đó bỏ qua lợi tức trên số tiền của anh ta.
Để có thu nhập tiền lãi, thay vì để tiền nhàn rỗi anh ta có thể đầu tư một phần tiền lương 2500 USD của anh ta, chẳng hạn, 1250 USD vào trái phiếu kho bạc,bổ sung tiền lãi vào nguồn lực chi tiêu của anh ta. Nếu anh ta đầu tư 1250 USD ,lượng tiền của anh ta sẽ bằng không ở giữa tháng chứ không phải ở cuối tháng. Nếu lãi suất của trái phiếu kho bạc là 0,75% anh ta thu nhập thêm được 4,68 [(0,5).(0,0075).(1250 USD)] mỗi tháng , hoặc 56,25 USD mỗi năm .Anh ta khômg thể chi tiêu trực tiếp trái phiếu kho bạc , song anh có đổi chúng thành tiền. Chiến lược này kéo theo các chí phí : Chi phí chuyển tài khoản khác thành tiền. Do đó ,anh ta sẽ cân nhắc , lợi ích của việc giữ tiền theo chi phí cơ hội được đo bằng lãi suất thị trường mà anh ta sẽ kiếm được do nắm giữ trái phiếu.
Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng ,sự cân nhắc này cho thấy cầu tiền giao dịch phụ thuộc vào lãi suất .Một sự tăng trong lãi suất thị trường làm tăng chi phí cơ hội của lượng tiền giao dịch. Kết quả là các cá nhân sẽ giữ tiền ít hơn ,và tốc độ sẽ tăng. Một sự giảm trong lãi suất thị trường tiền tệ sẽ làm giảm chi phí giữ tiền , các cá sẽ giữ số tiền lớn hơn ,tốc độ sẽ giảm. Do đó, cầu tiền giao dịch sẽ tỉ lệ nghịch với lãi suất thị trường, trái lại, tốc độ của tiền giao dịch sẽ tỉ lệ thuận với lãi suất thị trường.
Những quyết định của việc phân bổ danh mục vốn đầu tư
Tốc độ cũng thay đổi theo thời gian ứng với những quyết định phân bổ danh mục vốn đầu tư .Bởi vì tiền là một tài sản với tư cách là một trung gian trao đổi, những thay đổi trong lợi tức chờ đợi hoặc trong rủi ro, tính lỏng, hoặc tin tức liên kết với nó sẽ làm thay đổi cầu tiền mặt của hộ gia đình và doanh nghiệp.