Cảm nhận về vấn đề nguyên tắc trong Văn học khái luận của Đặng Thai Mai: Bài viết của Đặng Thai Mai đã nâng cao nhận thức về ý nghĩa...
Đọc thêm: Văn học khái luận – Đặng Thai Mai – Cảm nhận về vấn đề nguyên tắc trong Văn học khái luận của Đặng Thai Mai.. Bài viết của Đặng Thai Mai đã nâng cao nhận thức về ý nghĩa và giá trị của tác phẩm, của xu hướng văn nghệ trong quá trình học tập và cảm thụ thơ văn đối với mỗi chúng ta. ...
Đặng Thai Mai (1904-1984) là nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, nhà hoạt động chính trị, xã hội rất nổi tiếng, người có công lao to lớn xây dựng và phát triển nền văn học – văn hoá Cách mạng Việt Nam.
Ông để lại nhiều công trình, trong đó có cuốn “Văn học khái luận” xuất bản năm 1944. Văn bản “Vấn đề nguyên tắc” trích trong Chương II của tác phẩm này.
Nguyên tắc sáng tác, nghiên cứu, phê bình nghệ thuật là gì? Đặng Thai Mai đã chỉ rõ: “nghệ thuật đã phát triển trên nền sinh hoạt xã hội thì ta có thể đứng về phương diện sinh hoạt mà bình phẩm, mà nghiên cứu, mà sáng tác”.
Nền sinh hoạt xã hội là kinh tế, chính trị, văn hoá, là chế độ, là cuộc sống sản xuất, chiến đấu, là đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Văn nghệ sĩ, dù là nhà sáng tác hay nhà phê bình không thể thoát li mà phải “đứng về phương diện sinh hoạt mà bình phẩm, mà nghiên cứu, mà sáng tác” Nguyên tắc đó thể hiện một quan điểm nghệ thuật đúng đắn, tiến bộ: nghệ thuật vị nhân sinh.
Từ nguyên tắc trên, Đặng Thai Mai chỉ rõ mỗi một tác phẩm của nhà nghệ sĩ đều hướng về một đối tượng thưởng thức nghệ thuật nhất định, đó là một người, một giai tầng hay cho cả xã hội. Cũng vì thế, các khuynh hướng nghệ thuật, các trào lưu nghệ thuật xưa nay sau một thời kì toàn thịnh cũng phải chịu luật đào thải của thời gian và đại chúng.
Phần tiếp theo, tác giả đã chứng minh một cách toàn diện và cụ thể nguyên tắc trên.
Ở Pháp, văn đàn quý phái “La Plê-i-át” trong thế kỉ XVI đã bị trào lưu văn nghệ cổ điển (từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX) thay thế; nhưng rồi trào lưu văn nghệ cổ điển ấy đã bị chủ nghĩa lãng mạn (cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thếkỉ XIX) át hẳn.
Ở Việt Nam chúng ta cũng vậy, trong vòng trăm năm nay (cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX) thì “sự diễn tiến vẫn tuần tự theo công lệ giai tầng”. Văn thơ cổ điển của các nhà nho viết bằng chữ Hán và chữ Nôm “chỉ dùng” những danh từ tao nhã với niêm luật chặt chẽ, với ý tưởng của văn hoá, đạo đức quý phái (phong kiến) đã bị thay thế bởi thơ mới, bởi văn học lãng mạn, văn học hiện thực thời tiền chiến, đó là những tác phẩm văn chương của tầng lớp tiểu tư sản mang ý thức và tính cách thị dân.
Không chỉ ở hình thức nghệ thuật mà về phần nội dung, tác phẩm nghệ thuật nào cũng bị chi phối bởi nguyên tắc đó. Chủ đề “vĩnh viễn” mà các nhà văn trữ tình trên văn đàn tư sản cho rằng thơ văn bao giờ cũng chỉ có thể xoay quanh các lĩnh vực: ái tình, thiên nhiên và quan niệm người ta đối với sự chết. Đặng Thai Mai nêu lên câu hỏi: “Nhưng sao họ không thấy rằng đó cũng là sự sống mà thôi và vẫn luôn luôn biến hoá. Sao không thấy rằng sự sống đó đã cung cấp cho chúng ta những đề tài dồi dào hơn văn học ngày trước: Mà bấy nliiêu chủ đề vĩnh viễn, nhà văn ở mỗi giai tầng, ở mỗi thời đại cũng vẫn có những quan điểm riêng?”.
Qua đó, Đặng Thai Mai đã chỉ rõ: chủ đề tác phẩm, quan điểm sáng tác của văn nghệ sĩ cũng bị chi phối bởi nguyên tắc nghệ thuật phát sinh và phát triển trên nền sinh hoạt xã hội, và các văn nghệ sĩ chỉ có thể đứng trên phương diện xã hội mà sáng tạo, mà thể hiện quan điểm nghệ thuật của riêng mình.
Tác giả “Văn học khái luận” đã lấy chủ đề tình yêu để chứng minh rằng mỗi một tác phẩm trong mỗi thời kì khác nhau đều có cách thể hiện riêng, mang dấu ấn quan điểm riêng của nghệ sĩ.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du thuộc nền văn học cổ điển, cho nên chữ hiếu được trọng hơn chữ tình, mặc dù Thúy Kiều đã trải qua bao đau đớn hi sinh. Tiểu thuyết “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phát thuộc xu hướng văn học lãng mạn thì đã có sự khác biệt: Tố Tâm yêu Đạm Thủy không cam chịu cảnh “đặt đâu ngồi đấy” mà trái tim thiếu nữ “bỗng đánh những nhịp khác rồi…”. Và chỉ mười năm sau “Tố Tâm”, thế hệ đàn em, cô Loan trong tiểu thuyết “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh thuộc Tự lực văn đoàn, không chỉ than vãn khóc lóc mà còn “công nhiên tuyên bố những lời phản đối kịch liệt” đối với “phụ mẫu chi mệnh, mỗi chước chi ngôn”. Sự đòi hỏi được tự do trong tình yêu phản ánh một quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật tiến bộ, một xu hướng tiến bộ về hạnh phúc và gia đình. Hình ảnh cô Loan trong phần cuối tiểu thuyết “Đoạn tuyệt” dấn bước ra đi, không biết cô sẽ đi đến đâu, nhưng Đặng Thai Mai viết một cách hóm hỉnh: “Chúng ta có cái cùm chắc chắn là cô Loan sẽ không bao giờ đi giật lùi, là về lối cũ”.
Qua sự thể hiện chủ đề tình yêu trong ba tác phẩm “Truyện Kiều”, “Tố Tâm”, “Đoạn tuyệt”, Đặng Thai Mai đã khẳng định: “văn nghệ luôn luôn diễn tiến theo lịch sử sinh hoạt của xã hội”, “văn học chỉ là một lối biểu hiện các hình thái ý thức của xã hội”. Văn học là sản phẩm tinh thần, cũng như chính trị, pháp luật… thuộc thượng tầng kiến trúc “đều gây dựng trên nền tảng sinh hoạt xã hội mà vẫn tiến triển biến hóa luôn, theo khuynh hướng sinh hoạt chung, trên cơ thể thực tại của đời sống phong kiến tư bản xã hội”. Đó không chỉ là nguyên tắc mà còn là quy luật của sự sống, của văn nghệ. Văn học nghệ thuật không thể thoát cuộc sống, do đó “nghệ thuật vị nhân sinh”. Plê-kha-nốp (Nga) viết: “Nghệ thuật vị nghệ thuật phải đi đến con đường trụy lạc và tiêu diệt”. Đặng Thai Mai đã bình luận: câu nói của Plê-kha-nốp “rất dễ hiểu”‘, quan điểm nghệ thuật ấy “thắp ánh sáng lịch sử tiến hóa”.
“Vấn đề nguyên tắc là mt văn bản bình luận văn học nghệ thuật. Tác giả đã có một lối viết thâm trầm, uyên bác, kết hợp ba thao tác giải thích, chứng minh và bình luận mối quan hệ giữa văn học với thực tại xã hội, với cuộc sống. Đó là bản chất của văn học nghệ thuật.
Bài viết của Đặng Thai Mai đã nâng cao nhận thức về ý nghĩa và giá trị của tác phẩm, của xu hướng văn nghệ trong quá trình học tập và cảm thụ thơ văn đối với mỗi chúng ta.