Các yếu tố cấu thành đối tượng kiểm toán
Khái niệm Tài liệu kế toán là toàn bộ các chứng từ sổ sách kế toán, báo cáo kế toán, bảng biểu kế toán. Tài liệu kế toán, trước hết là báo cáo tài chính là đối tượng trực tiếp được mọi người quan tâm , nên tài ...
Khái niệm
Tài liệu kế toán là toàn bộ các chứng từ sổ sách kế toán, báo cáo kế toán, bảng biểu kế toán.
Tài liệu kế toán, trước hết là báo cáo tài chính là đối tượng trực tiếp được mọi người quan tâm , nên tài liệu này là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Điều đó được lý giải trước hết ở tài liệu kế toán, đặc biệt là báo cáo tài chính vì trong cơ chế thị trường, có nhiều người quan tâm đến thông tin tổng hợp và thực trạng tài chính của đơn vị. Trong cơ chế này, tài liệu kế toán không chỉ là cơ sở để tổng hợp các chỉ tiêu ở phạm vi rộng hơn, cũng không chỉ để kiểm tra, lưu trữ tài liệu và bảo quản tài sản mà là cơ sở cho mọi người quan tâm ra quyết định về quản lý, về đầu tư, về thanh toán, về phân phối,... Mặt khác, trong cơ chế thị trường với tự do cạnh tranh, rủi ro trong kinh doanh, trong đầu tư lớn. Trong điều kiện đó, số lượng người quan tâm đến tài liệu kế toán cũng tăng lên, song quan trọng là họ quan tâm đến chất lượng của tài liệu kế toán cũng cao hơn... Ngoài ra cũng phải kể đến tính phức tạp của quá trình xử lý thông tin kế toán cũng như kết cấu của các báo cáo tài chính. Hậu quả của tình trạng này không phải mọi người quan tâm đều am hiểu được tài liệu đó mà đôi khi chính kế toán viên cũng gặp khó khăn trong việc phản ánh các quan hệ phức tạp, đặc biệt là những quan hệ mới phát sinh. Ngay cả nội dung và phương pháp tính một khoản mục trên các bảng cân đối kế toán cũng có thể rất nhiều quan niệm khác nhau và mang lại kết quả khác nhau. Tính phức tạp này ngày càng tăng lên do quy mô của các khách thể kiểm tóan không ngừng mở rộng và do tính phức tạp của đối tượng kế toán, các hoạt động tài chính ngày càng tăng lên, nhiều bên tham gia với các phương thức khác nhau, nhiều quan hệ kinh tế mới phát sinh thâm nhập vào hoạt động tài chính.
Ngoài ra cũng phải kể đến sự cách biệt về chuẩn mực kế toán và các điều kiện thực hiện nó giữa các nước, các thời kỳ... dẫn tới sự nhận thức khác nhau và tổ chức khác nhau, nhất là sự thay đổi của chế độ kế toán... Tất cả những thực tế đó đòi hỏi kiểm toán để tạo niềm tin cho mọi người quan tâm và thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp và cải tiến tổ chức... để nâng cao chất lượng của tài liệu kế toán.
Các nguyên tắc khi tiến hành tài liệu kế toán, kiểm toán viên cần làm
- Tính hiện thực của các con số các thông tin trên báo cáo tài chính:
- Tính hiệu lực của các nghiệp vụ các tài sản đã được ghi chép trên sổ sách phải thực tế có xảy ra.
- Tính trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được ghi chép đầy đủ.
- Tính hợp pháp của các biểu mẫu của trình tự lập và luân chuyển các tài liệu kế toán.
- Tính hợp lý của các đối tượng kế toán phù hợp với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- Tính pháp lý trong việc thực hiện luật pháp chế độ chuẩn mực tài chính kế toán.
Trong trường hợp kế toán chỉ giới hạn đối tượng là tài liệu kế toán thì kiểm toán được gọi là kiểm toán chứng từ. Tuy nhiên trong thực tế, để kiểm toán các đối tượng trên thường phải điều tra, thử nghiệm hoặc là kiểm kê thực tế, lấy thực tế làm tiêu chuẩn đánh giá tính trung thực của tài liệu và tính hợp pháp trong việc thực hiện các luật pháp, chuẩn mực và chế độ kế toán.
Khái niệm
Thực trạng tài sản trong mỗi đơn vị kinh doanh hay hành chính sự nghiệp đều được biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau, với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng... khác nhau, và được lưu giữ trên nhiều kho, nhiều bãi khác nhau và những người quản lý khác nhau.
Nội dung
Giữa những người quản lý, cũng như giữa người quản lý và người sở hữu tài sản, họ thực hiện theo phương hướng và xu hướng khác nhau, nhưng đều có xu hướng tăng dần sự cách biệt giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản. Mặt khác khi sản xuất phát triển, quy mô kinh doanh mở rộng, các mối liên hệ kinh tế ngày càng đa dạng phức tạp, thêm vào đó, sự phong phú thêm của khái niệm truyền thống về tài sản đặc biệt là sự xuất hiện của các tài sản vô hình, các quan hệ vay- mua, thuê - mua, các hậu quả của rủi ro dẫn đến thu nhập hoặc tổn thất (chi phí) bất thường về tài sản, sự thâm nhập của các quan hệ thị trường, giá cảm tỷ giá mở ra trong phạm vi quốc tế... Tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng thông tin kế toán... Tất cả những thực tế đó đã thúc đẩy sự ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt tài sản vào đối tượng của kiểm toán.
Tài sản của Nhà nước, của các doanh nghiệp trong kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực hoạt động khác thường xuyên vận động. Quá trình vận động này được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể. Các nghiệp vụ cụ thể này có thể quy về các nghiệp vụ cơ bản như: cấp vốn – nhận vốn, vay – cho vay, cấp phát – thụ hưởng, xuất – nhập – tồn kho hoặc mua – bán – sản xuất (hoặc dịch vụ). Tuy nhiên, do đặc tính của từng loại tài sản cũng như mối quan hệ kinh tế của mỗi loại tài sản cũng khac nhau, sự đa dạng về chủng loại nghiệp vụ cũng như đặc tính của tài sản chứa đựng trong nghiệp vụ đòi hỏi phải chia công tác kiểm toán các nghiệp vụ này thành những phần hành kiểm toán khác nhau. Khác với các phần hành kế toán, phần hành kiểm toán trước hết được phân chia trên cơ sở đầu mối quan hệ tài chính và sau nữa là vị trí và đặc điểm của từng loại nghiệp vụ. Trên cơ sở đó, các phần hành kiểm toán cơ bản có thể gồm:
- Các nghiệp vụ về tiền mặt (thu – chi – tồn quỹ).
- Các nghiệp vụ về thanh toán (không phân biệt vay, nợ, phải thu, phải trả).
- Các nghiệp vụ về tài sản cố định (đầu tư, xây dựng, mua sắm, sử dụng,
- khấu hao, tăng giảm tài sản cố định).
- Các nghiệp vụ về hàng hoá (bảo quản, sử dụng).
- Các nghiệp vụ về kinh doanh (mua, bán, sản xuất hoặc dịch vụ) hoặc các nghiệp vụ sự nghiệp, xã hội... đối với các đơn vị kinh doanh.
- Các nghiệp vụ tài chính (tạo vốn, liên doanh, liên kết, kết quả tài chính).
Tuỳ theo đặc điểm của mỗi đơn vị về quy mô, về phương hướng hoạt động, về
tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý, và tuỳ thuộc loại hình cũng như yêu cầu kiểm toán cụ thể, có thể lược bỏ, tách riêng hay sát nhập, các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có những phần hành kiểm toán phù hợp với đơn vị cụ thể và mục tiêu kiểm toán cụ thể. Tuy nhiên trong bất kỳ điều kiện nào, các nghiệp vụ tài chính vẫn là đối tượng kiểm toán.
Khái niệm hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ kinh tế trong đầu tư, trong thanh toán trong sản xuất, trong kinh doanh và trong phân phối nhằm đạt được một lợi ích nhất định.
Tiền là biểu hiện bên ngoài của hoạt động tào chính còn nội dung bên trong là các mối quan hệ kinh tế.
Các nguyên tắc khi tiến hành hoạt động tài chính
- Hoạt động tài chính phải có mục tiêu phương án kế hoạch cụ thể.
Trong việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế có liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, mỗi cân đối cụ thể giữa các khâu, các giai đoạn khác nhau của hoạt động này đều có những hiệu quả khác nhau về kinh tế và về xã hội. Do đó, trong hoạt động tài chính phải có định hướng và cụ thể hoá bằng các mục tiêu cho từng thời kỳ cụ thể, ở từng công việc cụ thể. Hơn nữa những định hướng này cần được lượng hoá thành những cân đối khác nhau thành những phương án cụ thể khác nhau và lựa chọn phương án tốt nhất. Trong đó đặc biệt lưu ý các tương quan giữa tiền – hiện vật, giữa mục tiêu và chi phí cho việc thực hiện, giữa đầu vào và đầu ra ...
- Hoạt động tài chính phải đảm bảo có lợi và trên cơ sở tiết kiệm.
Lợi ích là mục tiêu của hoạt động tài chính. Trong kinh doanh, lợi ích này là
lợi nhuận thực hiện. Trong lĩnh vực xã hội, lợi ích này là hiệu quả kinh tế, xã hội, là kết quả thực hiện mục tiêu của chương trình, dự án cụ thể. Tronh mọi trường hợp phải đảm bảo việc tiết kiệm trên từng công việc, từng khoản chi, là nhằm hướng tới lợi ích cuối cùng, lợi ích toàn cục.
- Hoạt động tài chính phải đảm bảo tuân thủ pháp luật thể lệ chế độ tài chính.
Giải quyết các mối quan hệ kinh tế có liên quan đến nhiều khách thể khác nhau là nội dung của hoạt động tài chính. Mặt khác, các mối quan hệ giữa các bên có liên quan đã được xác định trong pháp luật và đã được cụ thể hoá trong các chế độ tài chính cụ thể. Để giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế, nhất thiết phải tuân thủ các chuẩn mực đã được xác định trong hệ thống pháp lý trong từng thời kỳ cụ thể. Hoạt động tài chính với nội dung nêu trên là đối tượng của nhiều môn học. Kiểm toán chỉ quan tâm tới thực trạng của hoạt động này, tức là xét trên bình diện hiện thực việc xử lý các quan hệ tài chính, việc bố trí, sử dụng và quản lý các nguồn lực, là hiệu quả của hoạt động tài chính, là việc tuân thủ các chế định về tài chính.
Đặc điểm của hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính có 2 đặc điểm:
- Một là: Thực trạng hoạt động tài chính một phần được phản ánh trên các tài liệu kế toán và một phần chưa được phản ánh trên các tài liệu kế toán, dựa vào phần được phản ánh trên tài liệu kế toán kiểm toán xây dựng ra phân hệ phương pháp kiểm toán chứng từ để thu thập bằng chứng kiểm toán, còn phần chưa được phản ánh kiểm toán phải xây dựng ra một phân hệ (hệ thống) phương pháp kiểm toán để thu thập các chứng từ, đó là hệ thống phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ.
- Hai là: Do trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại tài sản diễn ra nhiều nghiệp vụ kinh tế khác nhau biến đổi liên tục các tài sản được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau, do đó trong kiểm toán, kiểm toán viên không thể tiến hành kiểm toán toàn bộ tất cả các tài sản các nghiệp vụ, hơn nữa kiểm toán viên cũng không nhất thiết phải kiểm toán toàn bộ vì vậy kiểm toán đã xây dựng phương pháp kiểm toán chọn điểm hay trọng điểm hay chọn mẫu.
Nội dung
Tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính là những đối tượng gắn liền với sự phát sinh phát triển của kiểm toán. Song theo quan điểm hiện đại đối tượng kiểm toán còn bao gồm hiệu quả và hiệu năng quản lý. Việc mở rộng đối tượng kiểm toán như vậy xuất phát từ những đòi hỏi thực tế cuẩ hoạt động quản lý trong điều kiện quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng trong khi nguồn lực xã hội ngày càng khan hiếm, đặc biệt trong quá trình cạnh tranh ngày càng được thể hiện tiết kiệm và dành được lợi thế trong cạnh tranh thì vấn đề hiệu quả và hiệu năng cần được đặt ra đối với từng nhiệm vụ cụ thể.
Đặc điểm
- Đây là đối tượng mới của kiểm toán và nó bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20.
- Hiệu quả và hiệu năng là một bộ phận của kiểm toán nghiệp vụ gắn liền với một nghiệp vụ, một dự án, một hoạt động cụ thể.
- Trước khi tiến hành kiểm toán hiệu quả và kiểm toán hiệu năng cần phải xác định các tiêu chí các chuẩn mực cụ thể và rõ ràng làm cơ sở cho quá trình kiểm toán.
- Đối với việc đặt ra các chuẩn mực cho tính hiệu quả thường được xác định bởi mối quan hệ giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra, còn đối với hiệu năng thì luôn bao gồm các mục tiêu cụ thể của từng nghiệp vụ, từng hoạt động.
Tóm lại: Từ những nghiên cứu cụ thể về đối tượng kiểm toán có thể thấy, đối tượng kiểm toán là thực trạng hoạt động tài chính và hiệu quả thực hiện các hoạt động, chương trình hay dự án. Có thể phân chia đối tượng đó thành các đối tượng cụ thể hoàn toàn khác nhau như tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, cùng hiệu quả, hiệu năng của các nghiệp vụ, các chương trình, các dự án... Tuỳ theo tính trọn vẹn của sự thể hiện đối tượng đó trong một hay nhiều đơn vị kế toán để xác định khách thể kiểm toán là một xí nghiệp, một đơn vị sự nghiệp hay một công trình, một dự án cụ thể. Từ đó, có thể thấy đối tượng kiểm toán rất rộng lại được thể hiện trên rất nhiều khách thể. Để thực hiện tốt chức năng kiểm toán rõ ràng phải có nghệ thuật trong tổ chức kiểm toán: Lý luận kiểm toán cũng không thể né tránh những vẫn đề cơ bản nảy sinh từ đối tượng kiểm toán và liên quan đến thực hiện các chức năng của kiểm toán như gian lận và sai sót, trọng yếu và rủi ro, cơ sở dẫn liệu và bằng chứng kiểm toán.