25/05/2018, 10:00

Các quá trình vi sinh vật trong các công trình xử lý nước thiên nhiên

Các quá trình vi sinh hóa diễn ra khi xử lý nước thiên nhiên không phức tạp như khi xử lý nước thải vì các chất hữu cơ trong nước thiên nhiên ít hơn nhiều cả về lượng từng chất cũng như cả về số loại chất. Nước ngầm chứa ít chất bẩn và vi sinh vật hơn so ...

Các quá trình vi sinh hóa diễn ra khi xử lý nước thiên nhiên không phức tạp như khi xử lý nước thải vì các chất hữu cơ trong nước thiên nhiên ít hơn nhiều cả về lượng từng chất cũng như cả về số loại chất. Nước ngầm chứa ít chất bẩn và vi sinh vật hơn so với nước mặt. Nước mặt chứa các chất bẩn như chất lơ lửng, màu, chất hữu cơ, vô cơ, vi khuẩn và nhiều loại vi sinh vật khác. Những chất bẩn đó phải được loại trừ trước khi đưa đến người sử dụng. Các loại công trình xử lý tùy thuộc đặc tính nước thô. Chẳng hạn nước chứa các chất không tan dễ lắng thì có thể cho lắng ở các bể lắng để loại các chất đó; nước có màu và chứa các chất keo, phải xử lý bằng cách cho keo tụ rồi lắng và lọc sau đó. Nước cứng phải được làm mềm; nước chứa muối thì phải khử muối; nước chứa sắt thì phải khử sắt. Nếu nước chứa nhiều loại chất bẩn và vi khuẩn… thì phải xử lý rất phức tạp. Nhìn chung khi xử lý nước thiên nhiên, vi sinh vật tham gia chủ yếu vào các quá trình lắng và lọc.

Một trong những phương pháp đơn giản nhất để xử lý nước thiên nhiên là lắng. Khi lắng, những hạt lơ lửng nặng sẽ lắng xuống. Vi khuẩn hấp phụ và dính vào các hạt đó cũng dính và lắng theo. Kết quả nồng độ các chất lơ lửng, lượng nitơ amôn, vi khuẩn giảm đi rất nhiều, thậm chí trong một số trường hợp giảm được cả màu.

Có thể thực hiện việc lắng nước trong các hồ lớn - gọi là hồ sơ lắng. Với thời gian, nước lưu lại trong đó 5-7 ngày thì lượng vi khuẩn đường ruột giảm tới 90%. Tuy nhiên còn 10% chúng vẫn có thể tồn tại được mấy tuần hoặc hàng tháng. Khoảng thời gian này tùy thuộc mức độ trong sạch của nước. Nước càng bẩn thì vi khuẩn gây bệnh càng chóng chết, vì sẽ có sự đối kháng cạnh tranh giữa những loài vi sinh vật.

Khi sơ lắng trong mấy ngày đầu sẽ diễn ra quá trình tự làm sạch. Tuy nhiên, thời gian sơ lắng càng kéo dài thì sẽ diễn ra quá trình ngược lại, chất lượng của nước sẽ kém đi, vì sẽ phát hiện và phát triển tảo rêu, năng lượng của ánh sáng mặt trời sẽ biến thành sinh khối của chúng và khi chúng chết sẽ làm nồng độ chất hữu cơ tăng lên, xuất hiện vi sinh vật thối rửa, nước sẽ có mùi vị xấu, giảm lượng oxy hòa tan, thế năng oxy hóa bị giảm. Kết quả sẽ gây khó khăn cho việc xử lý tiếp theo. Để chống sự phát triển tảo (nở hoa) trong các hồ lắng, người ta dùng các biện pháp như: thả cá, che tối bể, dùng các alhycide.

Trong thực tế, người ta thường lợi dụng địa hình tự nhiên, chẳng hạn các vịnh cạnh bờ sông làm hồ sơ lắng thì sẽ rất kinh tế. Trong công nghệ xử lý nước thiên nhiên người ta xây dựng nhiều loại bể lắng khác nhau với thời gian lắng khác nhau tùy thuộc chất lượng nước, các yêu cầu kinh tế - kỹ thuật và công nghệ. Ở tất cả các loại hồ, bể lắng, thường thấy nhiều loại thực vật phù du và nhiều tảo xanh lam, khuê tảo tạo thành màng mỏng gọi là rêu. Trên các màng mỏng, rêu lại có cả các loài động vật phù du. Ngoài ra cần phải thấy rằng ở các bể lắng còn diễn ra những quá trình sinh hóa liên quan đến việc phân giải các chất hữu cơ trong điều kiện yếm khí.

Bể lọc chậm: Trong số các công trình xử lý nước thiên nhiên thì bể lọc chậm là công trình liên quan nhiều nhất tới vi sinh vật. Ngay từ đầu khi sáng tạo ra loại công trình này, người ta muốn tái tạo các quá trình sinh hóa tự nhiên giống như khi cho nước thấm lọc qua đất. Nhưng không những chỉ đơn thuần tái tạo những điều kiện tự nhiên đó, mà người ta còn xây dựng những công trình nhằm cải thiện điều kiện tự nhiên theo hướng có lợi hơn nữa.

Lớp trên cùng của vật liệu lọc là lớp cát hạt nhỏ. Ở đó sẽ giữ lại các hạt chất bẩn và hình thành những quần lạc sinh vật, diễn ra các quá trình sinh học và làm sạch nước. Những quần lạc bao gồm nhiều nhất là những vi sinh vật khoáng hóa (oxy hóa nitơ của muối amôn thành nitrit, rồi nitrat, H2S thành muối sulfat…) và một ít động thực vật phù du. Tất cả những quần lạc sinh vật sẽ tạo nên màng sinh vật dày đặc. Tuy nhiên chiều dày của lớp cát có màng sinh vật này chỉ vài cm mà thôi vì những vi sinh vật này chủ yếu là loại hiếu khí nên sống trên bề mặt bể lọc. Những yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả công tác của bể là: nhiệt độ, vận tốc, kích thước hạt. Nếu hạt cát quá nhỏ thì bể nhanh chóng bị ứ tắc; nếu hạt quá lớn thì không giữ được các chất lơ lửng ở màng sinh vật mà đi theo nước lọc.

Kích thước hạt ở lớp lọc thường 0.2 – 0.4mm. Vì hạt rất nhỏ nên lớp trên cũng chóng bị vít tắc và khoảng từ 2-10 tuần phải xúc lớp đó để rửa hoặc thay mới. Tốc độ lọc tùy thuộc chất lượng nước và thường chọn 0.1-0.3m/h.

Nhiệt độ là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới quá trình làm sạch nước vì tác nhân hoạt động chủ yếu ở đây là quần lạc sinh vật. Hiệu quả làm sạch nước của bể lọc rất tốt, hơn 99.99% vi khuẩn bị giữ lại. Tốc độ chậm đòi hỏi diện tích bể lọc rất lớn nên ngày nay người ta thường ít dùng bể này. Ngoài ra về mùa hè, nước sông, hồ chứa thường có tảo và làm lớp cát lọc chóng bị ứ tắc.

Bể lọc nhanh: Ở đây chủ yếu diễn ra quá trình vật lý, hóa và hóa lý. Đôi khi chỉ gặp một vài hiện tượng sinh hóa mà thôi. Chẳng hạn khi thời tiết ấm, nitơ amôn bị khử, trong nước lọc, lượng nitrit, nitrat tăng lên.

Khử các chất phóng xạ bằng cách lọc nước: Vi sinh vật nước nói chung và quần lạc sinh vật ở bể lọc nói riêng là tác nhân có thể hấp phụ các chất phóng xạ. Do đó hiệu suất khử các chất phóng xạ của bể lọc rất tốt. Tùy thuộc từng loại chất và nồng độ của các chất trong nước, hiệu suất khử các chất phóng xạ có thể đạt từ 50-96%.

Keo tụ bằng phèn nhôm hoặc sắt là một trong những phương pháp phổ biến để xử lý nước. Trong nước thiên nhiên chứa nhiều loại hạt keo dạng vi khuẩn, đất sét hoặc hữu cơ. Những ion nhôm có điện tích dương mạnh, còn đa số các hạt keo có điện tích âm. Với giá trị pH thích hợp chúng sẽ hấp phụ rồi keo tụ với nhau và tạo thành bông cặn kết tủa. Ở những điều kiện tĩnh, bông cặn sẽ lắng và kéo theo cả những vi khuẩn. hiệu suất khử vi khuẩn khi keo tụ tùy thuộc loại bể phản ứng và bể lắng, có thể đạt 90-99%.

Giai đoạn kết thúc của việc xử lý nước thiên nhiên là khử trùng. Như ta biết, để tăng hiệu suất khử trùng, trước đó người ta phải loại trừ các chất bẩn hữu cơ, vô cơ trong nước (chỉ trừ một số loại nước ngầm rất sạch, không cần xử lý mới thực hiện khử trùng trực tiếp mà thôi). Vì vậy người ta thường khử trùng sau khi nước ra khỏi bể lọc, trước khi vào bể chứa. Trong bể chứa nước sạch, chlore sẽ gây phản ứng giết chết vi khuẩn.

Những biện pháp khử trùng thông thường chỉ nhằm diệt các loại vi khuẩn không tạo nha bào vì các loại vi khuẩn liên quan đến đường truyền bệnh qua nước đều là những loại không tạo nha bào.

Người ta phân biệt các biện pháp khử trùng cá thể và tập trung. Các biện pháp cá thể như: đun sôi, dùng thuốc viên sát trùng, dùng nước bạc (ion bạc). Các biện pháp tập trung: khử trùng bằng chlore và các biện pháp khác.

Theo Chick, khi dùng một tác nhân vật lý hay hóa học nào đó để khử trùng thì tỷ lệ % giữa lượng vi khuẩn còn sống sót với số vi khuẩn ban đầu là một đại lượng không đổi và được biểu thị bằng công thức:

K - tốc độ chết của vi khuẩn;

t - thời gian tác động của tác nhân diệt trùng;

N1 - Nồng độ vi khuẩn ban đầu;

N2 - Nồng độ vi khuẩn còn sống sót;

Ý nghĩa thực tiễn của định luật Chick là ở chỗ: Kết quả khử trùng luôn luôn tùy thuộc mức độ nhiễm khuẩn của nước. Chẳng hạn, cũng là 99% vi khuẩn bị tiêu diệt, nhưng nếu lượng vi khuẩn ban đầu là 100 thì còn sống 1 vi khuẩn, nếu lượng vi khuẩn ban đầu là 10,000 thì còn sống 100 cá thể. Như vậy, nếu nói hiệu suất diệt trùng đều tốt như trường hợp sau thì còn xa mới an toàn.

Khử trùng nước bằng chlore:

a. Cơ chế diệt trùng của chlore trong nước :

- Khi chlore hóa, do tăng thế năng oxy hóa, làm nguyên sinh chất của tế bào bị oxy hóa.

- Tác dụng oxy hóa bởi oxy tạo ra: Khi chlore hóa, chlore tác dụng với nướctạo thành hypoclorơ (HClO). Acid này không bền vững nên tạo ra oxy nguyên tử và oxy hóa tế bào của vi khuẩn. Phản ứng diễn ra như sau:

Cl2 + H2O  2HClO (X-2)

HClO  HCl + Ö (X-3)

- Acid hypoclorơ cũng có thể phân ly:

HClO → H+ + ClO- (X-4)

Ion ClO- cũng có khả năng gây oxy hóa tế bào chất.

Nhưng theo Rose E.Mackiney thì dạng không phân ly HClO có hoạt tính mạnh hơn nhiều so với dạng phân ly. Thực nghiệm cho thấy hiệu suất khử trùng ở pH = 7 cao hơn ở giá trị pH = 9. Điều đó, theo R. E.Mackiney là do khi pH tăng lên thì dạng phân ly sẽ tăng và hiệu suất khử trùng giảm.

- Tác dụng trực tiếp của chlore: Bản thân chlore cũng tác dụng trực tiếp với tế bào vi khuẩn, vì chlore liên kết với các chất trong thành phần tế bào và làm vi khuẩn chết.

- Tác động bởi tia cực tím: Do có phản ứng hóa học xảy ra giữa chlore và các chất hữu cơ trong nước nên xuất hiện các tia tử ngoại và giết chết vi khuẩn.

Nói chung, khử trùng bằng chlore rất hiệu quả vì nó tạo ra gốc oxy hóa làm giảm hệ thống men ngăn cản quá trình hô hấp bình thường của vi khuẩn.

b. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả khử trùng của chlore:

- Trong nước thiên nhiên thường chứa các chất dễ bị oxy hóa. Do đó khi cho chlore - một chất oxy hóa mạnh vào nước thì nó sẽ tác dụng mạnh với các chất trong nước. Các chất dễ bị oxy hóa trong nước có thể là chất hữu cơ (như humus tan trong nước, các sản phẩm phân hủy protein, mỡ, đường, nitrat, muối sắt hóa trị 2, H2S…). Lượng các chất này trong nước cành nhiều thì lượng chlore tiêu thụ để oxy hóa các chất đó cũng càng nhiều. Ta gọi đó là mức độ hấp thụ chlore của nước.

Lượng chlore tiêu thụ cho tổ hợp tất cả các phản ứng phụ thuộc nhiều yếu tố: liều lượng chlore cho vào ban đầu, thời gian tiếp xúc, thế năng oxy hóa, nồng độ ion hydro, nhiệt độ…

Ở những điều kiện nhất định thì hiệu suất khử trùng của chlore phụ thuộc liều lượng chlore cho vào nước, thời gian chlore tự do tồn tại trong nước, pH, nhiệt độ, lượng vi khuẩn…

Liều lượng chlore cần thiết để khử trùng bao gồm: lượng chlore tiêu thụ và lượng chlore đủ để giết chết vi khuẩn. Trong thực tế có thể coi rằng: để đạt được hiệu quả khử trùng, nồng độ chlore dư còn lại trong nước sau 1/2h tiếp xúc phải không dưới 0.1-0.33mg/l.

- Ảnh hưởng của liều lượng chlore: Lượng chlore dư tồn tại trong nước tùy thuộc lượng chlore cho vào lúc đầu. Mặt khác liều lượng chlore ban đầu càng cao thì tốc độ giết chết vi khuẩn cũng càng mạnh.

- Ảnh hưởng của thời gian tiếp xúc: Nếu thời gian tiếp xúc càng lâu, tức là bể chứa càng lớn thì liều lượng chlore cần thiết để diệt trùng có thể giảm rất nhiều so với bể chứa nhỏ. Nhưng cần thấy rằng thời gian tiếp xúc càng lâu thì lượng chlore dư càng giảm.

- Ảnh hưởng của nhiệt độ: Nhiệt độ ảnh hưởng tới tất cả các phản ứng hóa học và cả đến quá trình khử trùng bằng chlore. Ở nhiệt độ thấp 0oC thì tốc độ phản ứng rất chậm. Khi nhiệt độ tăng thì tốc độ diệt khuẩn tăng rất nhanh. Cứ mỗi lần tăng 100C thì tốc độ diệt khuẩn tăng lên 2 lần. Tuy nhiên nếu nhiệt độ tăng lên thì lượng chlore dư cũng nhanh chóng bị mất đi.

- Ảnh hưởng của amoniac: Khi cho amoniac vào nước thì sẽ giảm được lượng chlore tiêu thụ trong quá trình khử trùng. Vì khi cho amoniac vào nước thì hiện tượng phân hủy chlore do quang hóa sẽ chấm dứt ngay. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cho rằng khi đó sẽ tạo thành chlore-amin. Chất này có thế năng oxy hóa rất thấp và làm hoạt tính của chlore bị giảm. Một số ý kiến khác lại cho rằng amoniac sẽ tác dụng với các chất hữu cơ, vô cơ trong nước và những chất này sẽ không bị oxy hóa bởi chlore nữa.

c. Tác dụng của việc khử trùng bằng chlore:

- Khử trùng bằng chlore không độc: Chlore là một chất độc. Sau khi khử trùng, trong nước vẫn còn một lượng chlore nhất định. Nhưng Trerkinski và nhiều người khác đã cho thấy: nồng độ chlore tự do trong nước là 0.3-0.5mg/l thì hoàn toàn không độc với cơ thể người. Với nồng độ đó, người ta lại thấy ngon và thơm mát hơn.

- Dùng chlore để khử mùi vị của nước: Chlore là chất oxy hóa mạnh, do đó đôi khi người ta dùng nó để khử mùi (nhất là mùi H2S) và vị của nước. Trong những trường hợp này, trong nước thường còn lại một lượng chlore khá lớn và người ta lại phải khử lượng chlore này. Muốn vậy người ta phải cho một lượng chất nào đó vào nước để liên kết với chlore nhưng không tạo thành chất độc đối với cơ thể. Những chất thường dùng để khử chlore: hyposulfit, sulfat natri, khí sulfure, chlore sắt, than hoạt tính.

- Khử trùng trên mạng lưới cấp nước: Trước khi sử dụng đường ống dẫn nước hoặc khi ống dẫn nước bị nhiễm trùng gây bệnh thì người ta phải tiến hành khử trùng ở đài nước và ống dẫn với liều lượng chlore cao. Liều lượng chlore cần thiết là 30-50 mg/l theo chlore tự do với thời gian chlore hóa là 24h hoặc 80-100 mg/l chlore tự do với thời gian 8h.

Để tránh độc bởi chlore cho người dùng, trước khi khử trùng phải báo trước để họ mở khóa xả nước đó đi, không sử dụng nữa.

Khử trùng bằng các phương pháp

0