24/05/2018, 21:08

Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại

Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ...

Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suất cho quá tình hình thành và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn n khác nhau. Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau:

Nguồn huy động từ chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia ( như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).

Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp định, vốn điều lệ và các quỹ.

Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. ở Việt Nam, để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN. Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.

Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó ( vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định).

Ngoài ra vốn tự có củaNHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng ( đây là các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như: Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định,...

Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để chống rủi ro,...; Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.

Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:

- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu,... Các nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông.

- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên liên doanh.

- Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một số quỹ khác.

Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để thu hút nguồn vốn ổn định này.

Tóm lại, nguồn vốn huy động từ chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh củ ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các NHTM.

ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. gửi là. Trên phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.

Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)

Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ban, được chỉ rõ là người thụ hưởng.

* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi

Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng lãi, do đó nó cho phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít được thực hiện nên NOW được sử dụng như một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên loại tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự động và khách hàng uỷ quyền trước cho ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản phát séc để bù đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.

Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản này được trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh thoán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.

Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội

Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn.

Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó.

Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền gửi không kỳ hạn.

NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.

Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng

Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. ở các nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.

Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ( trong đó có Việt Nam) người ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.

Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.

Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.

Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.

Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng. Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn nhiều và kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị của các NHTM.

Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể chia thành hai loại chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.

Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:

Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái phiếu,...

Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội bằng việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.

Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.

Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng.

* Kỳ phiếu:

- ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là một chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất định. Người sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ với lãi.

Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn của các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn chung không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng phát hành.

Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:

+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời điểm phát hành. chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD đến hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến hạn.

+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần. những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.

+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng chuyển tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một hợp đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.

Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi điều chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu,... Thông qua nghiệp vụ phát hành CD, các NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có hiệu quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn.

- Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220- NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.

Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục đích, nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.

Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình “ Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:

+ Lý do xin phát hành

+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn

+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)

+ Thời gian phát hành

+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu

+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.

Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết.

* TRÁI PHIẾU:

- các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu,...Người sở hữu có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.

Việt Nam, theo, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định.

Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.

Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ, ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).

Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên, thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là 50.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.

Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ...

NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện sau:

+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả

+ Có phương án kinh doanh cụ thể

+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định

+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước

Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép NHNN về việc phát hành trái phiéu theo quy định của pháp luật.

Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.

Vay vốn các tổ chức tín dụng

Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các hình thức huy động vốn khác.

Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.

* Vay từ NHNN và BTC:

- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách là Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.

- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh doanh.

* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác

Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh dựa trên nguyên tắc:

- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp

- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.

- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHNN.

Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.

* VAY TỪ NƯỚC NGOÀI:

Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có thể vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.

Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh ngân hàng.

sách tiền tệ

0