Các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh nhập khẩu
Hiệu quả tổng hợp tuyệt đối. Lợi nhuận nhập khẩu =Doanh thu nhập khẩu - Chi phí nhập khẩu Khi xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp người ta thường quan tâm trước hết tới lợi nhuận. Lợi ...
Hiệu quả tổng hợp tuyệt đối.
Lợi nhuận nhập khẩu =Doanh thu nhập khẩu - Chi phí nhập khẩu
Khi xem xét đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp người ta thường quan tâm trước hết tới lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận để duy trì và tái sản xuất mở rộng cho doanh nghiệp là điều kiện để nâng cao mức sống của người lao động. Khi lợi nhuận càng lớn thì doanh nghiệp làm ăn càng có lãi.
Tuy nhiên, bản thân chỉ tiêu lợi nhuận chưa biểu hiện đầy đủ hiệu quả hoạt động nhập khẩu, bởi lẽ chưa biết đại lượng ấy được tạo ra từ nguồn lực nào, loại chi phí nào. Do vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu người ta thường so sánh lợi nhuận với chi phí, doanh thu, vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Hiệu quả tổng hợp tương đối.
Chỉ tiêu 1: Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
H1 =Ln/Vn
Trong đó: H1 : Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 2: Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
H2 =Ln/Dn
Trong đó: H2 : Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu nhập khẩu thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận nhập khẩu.
Chỉ tiêu 3: Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
H3 =Ln/Cn
Trong đó: H3 : Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Cn : Chi phí cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận.
Hiệu quả về sử dụng vốn.
Chỉ tiêu 4: Hiệu quả sử dụng vốn cố định nhập khẩu.
H4 =Ln/VCDn
Trong đó: H4 : Hiệu quả sử dụng vốn cố định nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VCDn : Vốn cố định đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bỏ vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 5: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
H5 = Ln/VLDn
Trong đó: H5 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu 6: Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
H6= Dn/VLDn
Trong đó: H6 : Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay thể hiện số vòng luân chuyển của vốn lưu động. Số vòng quay càng nhiều phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng tăng.
Chỉ tiêu 7: Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
H7 = Dn/Vn
Trong đó: H7 : Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay thể hiện số vòng luân chuyển của vốn nhập khẩu.
Hiệu quả về sử dụng lao động nhập khẩu.
Chỉ tiêu 8: Mức sinh lời của một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
H8=Ln/LDn
Trong đó: H8 : Mức sinh lời của một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
LDn : Số lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ phân tích.
Chỉ tiêu 9: Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
H9 =Dn/LDn
Trong đó: H9 : Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt
động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
LDn : Số lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ phân tích.
Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hiệu quả kinh tế là các chỉ tiêu có tính chất định lượng như đã xem xét ở trên. Đó là các chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp. Hiệu quả về mặt xã hội trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp là những mặt lợi ích không thể định lượng được, nhưng nó đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn phương án nhập khẩu để triển khai trong thực tế. Nội dung của việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội rất đa dạng và phức tạp. Người ta thường gắn việc phân tích hiệu quả về mặt xã hội trong hoạt động nhập khẩu với việc thực hiện các nhiệm vụ xã hội đặt ra cho mỗi doanh nghiệp trong kỳ. Hay nói rộng hơn là phải phân tích ảnh hưởng của phương án nhập khẩu đối với toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của cả nên kinh tế quốc dân, của khu vực hay chỉ bó hẹp trong doanh nghiệp. Những nội dung cần phân tích là:
- Tác động vào việc phát triển kinh tế: Đóng góp vào gia tăng tổng sản phẩm, tăng tích luỹ, thoả mãn nhu cầu tiết kiệm ngoại tệ .....
- Tác động đến việc phát triển xã hội: Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xoá bỏ sự cách biệt giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược .......
- Tác động đến môi trường sinh thái và tốc độ đô thị hoá.
Tuỳ thuộc vào từng điều kiện, vào trạng thái hoạt động của mỗi doanh nghiệp trong từng thời điểm nhất định mà việc lựa chọn các phương án nhập khẩu, người ta sẽ xác định chỉ tiêu nào đó làm căn cứ, nhưng mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, những phương án nào vừa đảm bảo lợi nhuận vừa gắn với mục tiêu về xã hội thì sẽ được lựa chọn.
Các nhân tố khách quan.
Trong hoạt động thương mại, bất kỳ một hình thức kinh doanh nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, khi tiến hành bất kỳ một hoạt động nhập khẩu nào người ta đều phải xem xét kỹ lưỡng môi trường kinh doanh sao cho chi phí mà họ bỏ ra ít nhất và thu lợi nhuận cao nhất.
Môi trường chính trị - luật pháp trong nước và quốc tế.
Chế độ chính sách, luật pháp của nhà nước là những yếu tố mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện vì chúng thể hiện ý chí của Đảng lãnh đạo của mỗi nước, sự thống nhất chung của quốc tế. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, do đó nó không chỉ chịu sự tác động của chế độ, chính sách, luật pháp ở trong nước mà còn phải chịu những điều kiện tương tự ở phía các nước đối tác.
Tình hình chính trị trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Với một đối tác mà tại đó đang có xung đột về chính trị sẽ gây cản trở đến tiến trình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu. Cũng như vậy, nếu tình hình chính trị trong nước bất ổn định thì hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị giảm suát hoặc đình trệ.
Các công cụ kinh tế vĩ mô đối với nhập khẩu.
Thương mại quốc tế nói chung đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nhưng với những lý do mà mục đích riêng của mình nên hầu hết các quốc gia đều có chính sách thương mại riêng để thực hiện mục tiêu của chính phủ ở nước đó. Để nền kinh tế vận hành có hiệu quả thì việc đưa ra những chính sách và quyết định hợp lý là điều hết sức cần thiết. Trong hoạt động xuất nhập khẩu nhà nước thường áp dụng những hình thức, công cụ nhất định nhằm hạn chế thương mại tự do như: thuế quan, hạn ngạch,....
Thuế quan.
Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu của một quốc gia. Đây là biện pháp quan trọng nhất để thực hiện chính sách thương mại. Thuế đánh vào từng đơn vị hàng hoá nhập khẩu gọi là thuế nhập khẩu.
Nếu thuế nhập khẩu cao thì giá cả hàng hoá sẽ bị đội lên, và do đó làm hạn chế sức cạnh tranh của mặt hàng của doanh nghiệp nhập khẩu. Ngược lại, thuế nhập khẩu thấp, chi phí cho việc nhập khẩu sẽ thấp làm tăng lợi nhuận nhập khẩu. Do vậy, hiệu quả nhập khẩu sẽ được cải thiện.
Hạn ngạch nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng còn giá trị của mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Chính sách này được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo hộ nguồn lực trong nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, để thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa và thực hiện các chính sách khác. Hạn ngạch hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thưòi nó cũng ảnh hưởng đến giá trị nội địa của hàng hoá.
Hạn ngạch nhập khẩu làm cho lượng hàng nhập khẩu của doanh nghiệp bị hạn chế, do dó không thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường đầu ra. Do có một lượng hàng hoá nhất định đựoc nhập khẩu nên các doanh nghiệp sẽ phải tăeng chi phí để lấy được hạn ngạch có quy mô vừa đủ để bù đắp chi phí, giữ dược thị trường và có lãi. Hạn ngạch chặt chẽ sẽ làm cho doanh nghiệp có nguy cơ tạm dừng kinh doanh mặt hàng nhập khẩu bị hạn chế. Kinh doanh bị gián đoạn.
Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhập khẩu vì tính giá và thanh toán trong nhập khẩu phải dùng đến ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu và ngược lại.
Tỷ giá ngoại tệ hàng nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến việc quyết định nhập khẩu hany không một mặt hangf nào đó. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ thu về khi phải chi ra một đơn vị ngoại tệ. Trên cơ sở so sánh tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu với tỷ giá hối đoái, doanh nghiệp sẽ xác định được mức lỗ lãi là bao nhiêu khi tiến hành nhập khẩu hàng hoá đó.
Các quan hệ kinh tế quốc tế.
Hiện nay trên thế giới ngày càng xuất hiện nhiều các tổ chức kinh tế quốc tế như: ASEAN, APEC, NAFTA, WTO... Việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế này đều đem lại lợi ích thiết thực cho quốc gia. Các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng được thị trường tiêu thụ ra nước ngoài. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài sẽ gặp phải hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước nhập khẩu, các hàng rào này nới lỏng hay siết chặt đều phụ thuộc vào quan hệ song phương giữa hai nước, giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Chính điều này đã thúc đẩy các quốc gia tích cực trong quan hệ ngoại giao với nước khác, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế nhằm tạo được những mối quan hệ bền vững, xu hướng tích cực cho quá trình nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá của nước mình.
Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước.
Hoạt động nhập khẩu chịu sự tác động trực tiếp của tình hình sản xuất trong và ngoài nước. Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nhập khẩu và có thể làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Còn nếu sản xuất trong nước kém phát triển, không thể sản xuất ra những sản phẩm mang tính công nghệ cao, kỹ thuật cao thì nhu cầu nhapạ khẩu sẽ tăng lên. Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất ở nước ngoài tạo ra những sản phẩm mới hơn, hiện đại hơn, có giá trị sử dụng cao hơn, hapá dẫn khách hàng hơn nên nó sẽ thúc đẩy nhapạ khẩu. Nhiều khi để tránh được sự độc quyền, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay.
Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Hoạt động nhập khẩu nói chung không thể tách rời hoạt động vận chuyển và thông tin liên lạc. Với một hệ thống thông tin liên lạc nhanh nhậy, rộng khắp và hệ thống giao thông thuận tiện an toàn cho phép các doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ làm đơn giản hoá hoạt động nhập khẩu, giảm bớt được các chi phái và rủi ro, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn trong quá trình nhập khẩu, tăng vòng quay của vốn.
Ngược lại khi hoạt động nhập khẩu phát huy được tính hiệu quả thì nó sẽ góp phần làm cho sản xuất trong nước phát triển, tăng thu ngân sách, từ đó nhà nước có điều kiện hơn để đầu tư cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông vận tải và giao tin liên lạc phục vụ nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống tài chính ngân hàng.
Hệ thống tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong quản lý, cung cấp vốn và thanh toán nên nó can thiệp tới tất cả các hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế, dù doanh nghiệp đó lớn hay nhỏ hay ở bất cứ thành phần kinh tế nào. Hệ thống ngân hàng cung cấp vốn, giúp các doanh nghiệp trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế và các cảnh báo cho doanh nghiệp khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Các mối quan hệ, uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng của ngân hàng rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu đảm bảo được lợi ích của mình.
Khi hoạt động nhập khẩu nói trên phát triển thì nó góp phần làm tăng doanh thu cho các ngân hàng, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng có thực tiễn kiểm chứng chất lượng hoạt động của mình, từ đó có các biện pháp tích cực để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Những biến động của thị trường trong và ngoài nước.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là chiếc cầu nối giữa sản xuất trong nước với thị trường quốc tế và ngược lại. Nó tạo ra sự phù hợp, gắn bó và phản ánh sự tác động qua lại giữa hai thị trường. Khi có sự thay đổi trong giá cả, nhu cầu thị trường về một mặt hàng ở thị trường trong nước thì ngay lập tức có sự thay đổi lượng hàng nhập khẩu. Cũng như vậy, thị trường các nước ngoài quyết định sự thoả mãn các nhu cầu trong nước. Sự biến động của nó về khả năng cung cấp sản phẩm mới, về sự đa dạng của hàng hoá, địa vị cũng được phản ánh qua chiếc cầu này để tác động lên thị trường nội địa.
Ngoài các yếu tố kể trên, sự biến động của môi trường chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, tự nhiên... đều tác động đến hoạt động nhập khẩu và một ví dụ gần đây là việc xoá bỏ cấm vận với Việt Nam của chính quyền Bill Clinton đã có tác dụng thúc đẩy thương mại trao đổi giữa hai nước lên cao, ở thị trường Việt Nam đã có rất nhiều thương hiệu xuất xứ từ Mỹ, mà trong đó hoạt động nhập khẩu đóng vai trò chủ yếu. Nói chung, những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức và đưa ra phương hướng kinh doanh cho phù hợp với chúng chứ không thể tự mình tác động làm biến đổi chúng được.
Nhân tố chủ quan
Ngoài những nhân tố khách quan, doanh nghiệp có thể dựa vào các lợi thế của mình để hạn chế phần nào ảnh hưởng của môi trường, để khai thác các cơ hội. Sự thích ứng như vậy cũng phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố chủ quan.
Nguồn nhân lực.
Đây là nhân tố chủ quan quan trọng nhất vì con người sẽ quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong điều kiện doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh nhập khẩu nên đội ngũ cán bộ nắm chắc được chuyên môn nghiệp vụ nhập khẩu sẽ đem lại tác dụng rất lớn trong sự thành công trong kinh doanh. Nó giúp tiết kiệm thời gian giao dịch, tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu thuận tiện, tiêu thụ nhanh hàng nhập khẩu tránh để đọng vốn... Khi mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều có tinh thần trách nghiệm, đều có tác phong làm việc nghiêm túc thì sẽ đem lại hiệu quả rất lớn. Và ngược lại, khi hiệu quả hoạt động nhập khẩu được nâng cao thì nguồn nhân lực trong công ty đó lại có điều kiện tốt hơn để hoàn thiện và nâng cao trình độ.
Vốn kinh doanh.
Đây cũng là nhân tố quan trọng vì lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu đòi hỏi một lượng tiền mặt và ngoại tệ lớn để thanh toán cho các đối tác trong nước và nước ngoài. nếu thiếu vốn thì qúa trình nhập khẩu không thực hiện được, rất có thể sẽ dẫn đến mất thị trường, mất khách hàng và cơ hội kinh doanh. Ngược lại, quá trình kinh doanh nhập khẩu, với sự trợ giúp của nguồn vốn đầy đủ, sẽ có hiệu quả hơn, từ đó đem lại tích luỹ cho doanh nghiệp, bổ sung thêm nguồn vốn kinh doanh. Chúng có quan hệ qua lại, mật thiết với nhau, và nếu được kết hợp hài hoà sẽ làm cho doanh nghiệp không ngừng phát triển.
Trình độ tổ chức quản lý
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì yếu tố quản lý trong doanh nghiệp không thể không được chú trọng. Vì trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt, nếu người quản lý không sáng suốt tất yếu sẽ gặp những thất bại trong kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà đã và đang sẽ có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu, với những tiềm lực vô cùng mạnh mẽ. Điều này càng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo, quản lý phải linh hoạt, nhạy bén, để có thể chớp thời cơ, vượt qua những nguy cơ trong kinh doanh để đem lại thành công cho doanh nghiệp.
Trong tổ chức, quản lý cần coi trọng khâu nhập khẩu hàng đầu vào và tiêu thụ hàng nhập khẩu. Đối với khâu mua hàng (nhập khẩu) nếu cán bộ có trình độ tổ chức quản lý tốt sẽ mua được đúng hàng, đúng thời điểm, đúng yêu cầu. Còn ở khâu tiêu thụ thì sẽ giúp công ty nhanh chóng bán hết hàng nhập, thu hồi vốn nhanh để tiếp tục đầu tư. Ngược lại, tổ chứuc tốt khâu trên sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu, từ thực tế đó, trình độ tổ chức quản lý trong nhập khẩu sẽ được nâng lên thông qua sự phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.