Bộ Gà
(danh pháp khoa học: Gallifomes) là một bộ của lớp chim, trên thế giới bộ này có khoảng từ 250-294 loài còn sinh tồn trong 68-85 chi, tùy theo quan điểm phân loại. có kích thước cơ thể đa dang, từ 12,5 cm cho tới 120 cm, trọng lượng cơ thể từ vài ...
(danh pháp khoa học: Gallifomes) là một bộ của lớp chim, trên thế giới bộ này có khoảng từ 250-294 loài còn sinh tồn trong 68-85 chi, tùy theo quan điểm phân loại.
có kích thước cơ thể đa dang, từ 12,5 cm cho tới 120 cm, trọng lượng cơ thể từ vài chục gam cho tới hàng chục kg.
gồm những động vật như gà, công, gà tây, trĩ... Những động vật trong bộ gà, ở hai chân thường có một vảy sừng nhô ra ma chúng ta hay gọi là cựa. Con trống thường đẹp hơn con mái, chúng có màu sắc sặc sỡ và linh hoạt hơn con mái. Đuôi của con trống thường dài và đẹp hơn con mái. Con trống thường có cặp cựa dài hơn con mái, con mái có thể có hay không có cựa.
Các thành viên còn sinh tồn trong bộ Galliformes thro truyền thống được chia ra thành 7 (hoặc nhiều hơn) họ. Gần đây, nói chung người ta tin rằng nhóm gà thông và gà tây với bề ngoài rất khác biệt nhưng điều đó không đảm bảo việc chia tách chúng ra thành các họ riêng rẽ là hợp lý do nguồn gốc rất gần đây của chúng từ các dạng chim tương tự như gà gô hay trĩ. Dương như là gà tây trở nên to lớn hơn khi tổ tiên của chúng chiếm lĩnh vùng ôn đới và cận nhiệt đới tại Bắc Mỹ, nơi không có những kẻ cạnh tranh kích cỡ như trĩ. Ở mặt khác, tổ tiên của gà thông đã thích nghi với khí hậu khắc nghiệt và vì thế chúng có thể chiếm lĩnh các khu vực cận Bắc cực. Với niềm tin như thế, họ Phasianidae được mở rộng trong một số xử lý hiện thời để gộp cả các họ Tetraonidae (gà thông) và Meleagrididae (gà tây), hoặc như là các phân họ
Hai bộ, Anseriformes (vịt) và Galliformes, cùng nhau hợp thành nhóm Galloanserae (gà vịt). Chúng là nhóm cơ sở trong các dạng chim với hàm mới, và thông thường đi cùng Paleognathae (chim hàm cũ, bao gồm cả các dạng chim chạy như đà điểu) trong các hệ thống phân loại chim hiện nay. Điều này lần đầu tiên được đề xuất trong phân loại Sibley-Ahlquist và từng là một thay đổi lớn của sơ đồ đề xuất đó được gần như tất cả chấp thuận. Mặt khác, bộ Galliformes theo như giới hạn truyền thống của nó được gọi là Gallomorphae trong phân loại Sibley-Ahlquist, tách 2 họ Cracidae và Megapodidae như là một bộ riêng, gọi là "Craciformes". Tuy nhiên, nó không là một nhóm tự nhiên mà chỉ là kết quả sai lầm của phương pháp phân loại theo ngoại hình hiện đã lỗi thời được sử dụng trong phân loại Sibley-Ahlquist. Các nghiên cứu theo ngoại hình không phân biệt các đặc trưng dạng gần (tồn tại trước khi có tổ tiên chung) với các đặc trưng dạng chia tách (tồn tại ở các hậu duệ muộn hơn của nhóm), và điều này dẫn tới các dòng dõi cơ sở dường như tạo thành một nhóm đơn ngành.
Theo dòng lịch sử, các loài cun cút (Turnicidae), cuốc Madagascar (Mesitornithidae) và hoatzin (Opisthocomus hoazin) cũng được đặt trong bộ Galliformes. Các dạng cun cút hiện nay được biết đến như là tương tự như choi choi đã thích nghi với kiểu sống trong nội lục, trong khi các dạng cuốc Madagascar có lẽ có quan hệ gần với ít nhất là một vài loài chim theo truyền thống nằm trong tổ hợp "Gruiformes" (sếu). Mối quan hệ của hoatzin thì hoàn toàn mờ mịt, và thông thường nó hay được coi như là bộ đơn loài, gọi là "Opisthocomiformes" để biểu thị điều này.
Do loài thủy cầm cổ nhất đã biết, Vegavis iaai, có niên đại từ Hậu Creta, các tổ tiên của bộ Gà cũng phải sinh sống cùng thời với các động vật như Tyrannosaurus rex, mặc dù không nhất thiết phải trên cùng một khu vực như loài khủng long cụ thể này.
Trên thực tế, tồn tại một ít các hóa thạch rời rạc của các sinh vật được coi là có dạng gà từ thời kỳ thuộc kỷ Creta, trong đó đơn vị hóa thạch đáng chú ý nhất là Austinornis. Trước đây được nói tới như là Ichthyornis lentus, Graculavus lentus hay Pedioecetes lentus, một phần xương cẳng chân trái của nó được tìm thấy tại Austin Chalk có niên đại Hậu Phấn trắng gần Fort McKinney (Texas). Loài chim này gần gũi với Galliformes một cách chắc chắn, nhưng việc nó có là một phần của bộ này hay thuộc về một nơi nào trong nhánh dạng gà ít được biết tới của Galloanserae vẫn chưa rõ ràng
Các hóa thạch khác thuộc đại Trung sinh được nói tới như là Galliformes với độ chắc chắn thấp hơn đáng kể: Loài Gallornis cực kỳ kì dị sống tại khu vực ngày nay là Pháp khoảng 140-130 triệu năm trước (Ma) nhưng người ta cũng có thể coi nó là chim dạng Ornithurae. Mặc dù xác suất nó là dạng gà rất cổ không thể bị loại bỏ, nhưng niên đại quá cổ của nó làm cho điều này dường như là không thể. Trường hợp của Austinornis chỉ ra rằng rất có thể có sự lộn xộn trong việc nhận dạng những loại chim được coi là dạng gà với các dạng Ornithurae nguyên thủy hơn, như Ichthyornis.
Mẫu vật PVPH 237 từ thành hệ Portezuelo Hậu Creta (tầng Turones-tầng Cognac, khoảng 90 Ma) trong khu vực Sierra de Portezuelo (Argentina) có thể là ứng viên có vẻ hợp lý hơn cả cho dạng gà nguyên thủy. Nó là một phần xương quạ của chim hiện đại (Neornithes), với hình dạng chung và cụ thể là gá lắp rộng và sâu cho cơ nối xương quạ và xương cánh tay (xương phần tay trên) tương tự như các dòng dõi cơ sở hơn của chim dạng gà
Kỷ Paleogen có một vài họ chim dạng gà hiện nay đã tuyệt chủng, được gọi là Gallinuloididae, Paraortygidae và Quercymegapodiidae. Trong thời kỳ đầu đại Tân sinh, có thêm một vài dạng chim bổ sung, có thể là Galliformes thời kỳ đầu hoặc không phải, cho dù nếu chúng thuộc về bộ này thì chúng có lẽ không thể thuộc về các họ còn loài sinh tồn:
- †Argillipes (London Clay, Tiền Eocen tại Anh)
- †Coturnipes (Tiền Eocen tại Anh, Virginia, Hoa Kỳ?)
- †Paleophasianus (Willwood, Tiền Eocen tại quận Bighorn, Hoa Kỳ)
- †Percolinus (London Clay, Tiền Eocen tại Anh)
- †Amitabha (Bridger, Trung Eocen tại Forbidden City, Hoa Kỳ) - dạng trĩ?
- †"Palaeorallus" alienus (Trung Oligocen tại Tatal-Gol, Mông Cổ)
- †Anisolornis (Santa Cruz, Trung Miocen tại Karaihen, Argentina)
Từ giữa thế Eocen trở đi - khoảng 45 Ma hay đại loại như vậy - các dạng gà kiểu hiện đại đã được biết tới, và chúng thay thế hoàn toàn cho các họ hàng cổ hơn vào đầu kỷ Neogen. Do các đại diện sớm nhất của các họ dạng gà hiện đại còn sinh tồn dường như thuộc về họ Phasianidae - họ trẻ nhất trong bộ Galliformes - nên các họ khác của bộ Galliformes phải ít nhất có nguồn gốc từ đầu thế Eocen nhưng cũng có thể cổ tới tận Hậu Creta. Đơn vị phân loại hóa thạch Tristraguloolithus cracioides dựa trên các mảnh vỏ trứng hóa thạch từ thành hệ Oldman Hậu Creta tại miền nam Alberta (Canada) là tương tự như trứng của chachalaca, nhưng do không có các vật liệu xương nên mối quan hệ giữa chúng không thể xác định, ngoại trừ một điều là chúng dường như không phải là từ khủng long không biết bay.
Các chi hiện đại của Phasianidae bắt đầu xuất hiện vào khoảng ranh giới Oligo-/Miocen, khoảng 25-20 Ma. Một điều vẫn chưa biết rõ là các chi còn sinh tồn của các họ dạng gà khác và cổ hơn có bắt nguồn vào cùng thời gian này hay sớm hơn không, mặc dù ít nhất ở các dạng cút Tân thế giới thì các dạng thuộc tiền-Neogen dường như thuộc về các chi sau này đã bị tuyệt chủng.
Một số các hóa thạch từ kỷ Paleogen tới Trung Neogen rất chắc chắn là thuộc về bộ Galliformes, nhưng mối quan hệ chính xác của chúng trong bộ thì không thể xác định:
Bộ xương của Palaeortyx, Muséum national d'histoire naturelle, Paris
- †Austinornis (Austin Chalk, Hậu Cretac tại Fort McKinney, Hoa Kỳ) - đặt vào đây không chắc chắn, trước đây gọi là Graculavus/Ichthyornis/Pedioecetes lentus
- †Procrax (Trung Eocen? - Tiền Oligocen) - Cracidae? Gallinuloididae?
- †Palaeortyx (Trung Eocen -? Tiền Pliocen) - Phasianidae hay Odontophoridae
- †Palaeonossax (Brule, Hậu Oligocen tại South Dakota, Hoa Kỳ) - Cracidae?
- †Taoperdix (Hậu Oligocen) - Gallinuloididae? Bao gồm cả "Tetrao" pessieti
- †Archaealectrornis (Oligocen) - Phasianidae?
- †Galliformes gen. et sp. indet. (Oligocen) - trước đây trong Gallinuloides; Phasianidae? Mẫu vật MCZ 342506. Xương cánh tay đầu gần của chim lớn hơn của Gallinuloides[10]
- †Archaeophasianus (Oligocen? - Hậu Miocen) - Phasianidae? (Tetraoninae?)
- †Palaealectoris (tầng hóa thạch Agate, Tiền Miocen tại quận Sioux, Hoa Kỳ) - Tetraoninae?
- †Linquornis (Trung Miocen)
- †Palaeoalectoris (Hạ Thảo Loan (下草湾), Trung Miocen tại huyện Tứ Hồng, Túc Thiên, Giang Tô, Trung Quốc)
- †Shandongornis (Trung Miocen)
- †"Cyrtonyx" tedfordi (Barstow, Hậu Miocen tại Barstow, Hoa Kỳ)