Bình giảng về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11
Bình giảng về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 Bài làm Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ một tấm bưu thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần chỉ là lời vịnh cảnh, vịnh người mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu mãnh liệt nhưng vô ...
Bình giảng về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11 Bài làm Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ một tấm bưu thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần chỉ là lời vịnh cảnh, vịnh người mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu mãnh liệt nhưng vô vọng, một niềm khát khao sống, tha thiết, gắn bó với đời khi mà nhà thơ có nguy cơ phải sớm lìa xa cuộc đời. Bài thơ mở đầu bằng bức tranh phong ...
Bình giảng về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lớp 11
Bài làm
Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gợi cảm hứng từ một tấm bưu thiếp nhưng bài thơ không đơn thuần chỉ là lời vịnh cảnh, vịnh người mà đó là tiếng lòng đầy uẩn khúc của một tình yêu mãnh liệt nhưng vô vọng, một niềm khát khao sống, tha thiết, gắn bó với đời khi mà nhà thơ có nguy cơ phải sớm lìa xa cuộc đời.
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh phong cảnh bình minh nơi thôn Vĩ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi như một lời trách móc nhẹ nhàng, lời mời gọi tha thiết đối với nhà thơ. Câu thơ có thể hiểu theo hai cách, trước hết có thể hiểu đó là lới của cô gái thôn Vĩ hướng tới thi sĩ nhưng cũng có thể hiểu đó là lời nhà thơ tự trách mình, cũng là ước mơ thầm kín của người đi xa mong được trở về thăm chốn xưa. Trong câu thơ tác giả dùng tư “chơi” một cách thân mật khác hẳn từ “về thăm” mang tính chất xã giao, cách dùng từ ấy phù hợp với một lời mời chân tình, gần gũi. Câu hỏi sẽ là duyên cơ để khơi dậy trong lòng nhà thơ biết abo kỉ niệm sâu sắc, hình ảnh đẹp đẽ về xứ Huế, về thôn Vĩ. Từ câu hỏi tác giả mở ra một cảnh thật đẹp, thật trong sáng về cảnh thôn quê. Hình ảnh của “nắng vườn cau” và những vườn xanh mướt nơi thôn Vĩ gợi lên sự tinh khôi, tinh khiết. Trong thơ của Hàn Mạc Tử thường miêu tả nhiều nắng, ví như bài “Mùa xuân chín”: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan… Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang”. ở mỗi câu thơ tác giả lại có sự phát hiện riêng về sắc màu của nắng ở những thời điểm khác nhau. Cái nhìn của tác giả chuyển dần xuống thấp hơn, quan sát cảnh vườn tươi đẹp bao quanh nhà tạo thành cấu trúc thẩm mĩ xinh xắn mà Xuân Diệu từng ví như một bức tranh tứ tuyệt tuyệt đẹp. Từ “mướt quá” gợi vẻ đẹp tươi tốt, đầy sức sống của vườn cây thôn Vĩ, câu thơ như một lời cảm thán gợi sắc thái ngợi ca. Phép so sánh “xanh như ngọc” là một so sánh đẹp gợi hình ảnh những chiếc lá xanh mướt dưới nắng sớm, sạch sẽ, láng bóng. Qua những câu thơ ta còn nhận ra tình cảm của cả những người chăm sóc dành cho vườn cây. Phải là một người có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, có ân, có tình đặc biệt tha thiết đậm đà với thôn Vũ mới lưu giữ được những hình ảnh sống động và đẹp đẽ đến thế. Câu thơ cuối “ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” có sự xuất hiện của con người làm cho cảnh vật thêm ấm áp, sinh động hơn. Sự xuất hiện ấy cũng rất tế nhị, kín đáo, phù hợp với bản tính nhẹ nhàng của người xứ Huế. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền – khuôn mặt cương trực, phúc hậu, thẳng thắn. Tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người cụ thể mà chỉ ghi lại một chi tiết, một nét trong vẻ đẹp tâm hồn, tính cách thông qua khuôn mặt.
Tiếp sau bức tranh vườn tược, khổ thơ thứ hai của bài thơ miêu tả bức tranh sông nước xứ Huế.
“Gió đi lối gió, mây đường mây
Mặt nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”’
Hai câu thơ đầu, khi quan sát cảnh vật thiên nhiên, nhà thơ nhận thấy mọi sự vật đang chia lìa, xa cách “gió đi lối gió, mây đường mây”. Về mặt tự nhiên, hình ảnh có vẻ rất vô lý vì gió mây thường bay cùng hướng không thể có sự ngược chiều. Nhưng nỗi đau trong tâm trạng của nhà thơ đã chi phối cách nhìn cảnh vật, bản thân nhà thơ đang bị tách rời cuộc sống nên ông nhìn sự vật trong cái nhìn đầy mặc cảm – mặc ảm chia lìa. Nỗi đau càng sâu sắc, càng cho ta thấy niềm khao khát sống của nhà thơ. Câu thơ được diễn tả theo logic tâm lý. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để diễn tả được tình cảnh khác thường, không chỉ trong mây và gió mà còn trong cả dòng nước sông Hương “dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Câu thơ diễn tả nhịp điệu êm đềm, khoan thai của xứ Huế, gió mây nhè nhẹ, dòng nước chảy hững hờ, cỏ cây khẽ đung đưa. Như vậy từ sự chia lìa của mây gió đã làm nên nỗi buồn cho tâm trạng hay cũng chính là nỗi buồn của thi nhân. Cách ngắt nhịp 4/3, hình ảnh gắn với mỗi vế làm cho câu thơ như bị cắt đôi, cảnh vật cũng bị chia rẽ, chia lìa ngang trái.nếu ở hai câu thơ đầu hình ảnh còn mang tính chất thực thì sang hai câu thơ sau hình ảnh đã chuyển sang tính chất ảo. Hình ảnh “sông trăng” chính là dòng nước, dòng ánh sáng. Hình ảnh con thuyền có thể là thật nhưng hình ảnh sông trăng và thuyền chở trăng lại mang tính chất ảo, lúc này dòng sông không còn là dòng nước nữa mà là trở thành dòng ánh sáng lấp lánh ánh trăng, tạo ra một không gian nghệ thuật hư ảo, mênh mang. Chính vì thế, con thuyền cũng trở nên mộng tưởng, nó đậu trên sông trăng để chở trăng về một cõi mơ. Như vậy, nhà thơ đã phác họa ra một nét rất đẹp của sông Hương dưới ánh trăng, các hình ảnh được thi sĩ sử dung có tính chất bóng bẩy, gây chú ý cho người đọc, tạo nên một bầu không khí hư hư, thực thực, nét thực, nét ảo chuyển hóa một cách ảo mộng. Đặt hình ảnh ánh trăng trong thế giới quan với các hình ảnh khác trong khổ thơ, nhà thơ có cảm giác mình đang bị bỏ quên ở bến bờ quên lãng, trong cô đơn thi nhân chỉ biết bấu víu vào trăng. Trăng là bạn, là tri âm, tri kỉ của thi nhân từ ngàn đời nay, là nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật. Ngoài ra, trong lúc này, trăng là điểm tựa, là niềm an ủi duy nhất đối với thơ, vì thế nhà thơ đã đặt hi vọng vào con thuyền chở trăng có về “kịp” tối nay hay không? Lời thơ chứa đựng bao thấp thỏm, lo âu, khắc khoải, đợi chờ và cả một cảm giác cô đơn. Chữ “kịp” không phải là một chữ được dùng bóng bẩy ,à hoàn toàn bình dị nhưng chính nó lại hé mở cho người đọc cảm nhận về tâm thế sống của Hàn Mặc Tử : đó là một cảm nhận về hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, tranh thủ từng giờ, từng khắc.
Nhà thơ đã trực tiếp tâm sư với con người xứ Huế trong khổ thơ thứ ba:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cảnh vật trong đoạn thơ hoàn toàn là cảnh ảo. Sương khói làm mờ nhân ảnh, cảnh vật được gợi ra mang nét đặc trưng của xứ Huế. Hình ảnh con người xuất hiện với “áo em trắng quá nhìn không ra”, sử dụng từ cực tả. Câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà” có thể hiểu là lời cô gái hướng tới nhân vật trữ tình nhưng cũng có thể hiểu là lời nhân vật hỏi cô gái. Câu thơ tràn ngập mặc cảm tự ti về tình người, sự hoài nghi về tình cảm của con người xứ Huế liệu có đậm đã hay không. Trong câu thơ cáo ai đại từ “ai”, một đại từ chỉ tác giả, một đại từ chỉ cô gái hay chính là chỉ tình người trong nhân gian. Đọc bài thơ ta thấy không phải Hàn Mạc Tử hoàn toàn không tin vào sự đậm đà của tình người mà là không dám tin. Câu thơ vẫn bao hàm một niềm hi vọng sâu sắc , nó mang sự hoài nghi của một người yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha với người nhưng đầy mặc cảm.
Qua hệ thống các câu hỏi và hình ảnh, bài thơ đã thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình, từ mơ ước, đắm say đến hoài vọng, phấp phỏng cho đến mơ tưởng, hoài nghi của một tâm hồn yêu đời, khát khao cuộc sống.
Từ khóa tìm kiếm:
bình giảng bài thơ đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử lớp 11
binh giang bai tho day thon vi da cua han mac tu lop 11