04/06/2017, 00:36
Bình giảng khổ thơ cuối trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vòi con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng ảo não nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của người này, Xuân Diệu nhận xét: Trong thơ Việt Nam nghe bay ...
Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vòi con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng ảo não nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của người này, Xuân Diệu nhận xét: Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời ly tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?... Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thế thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não ruột lắm sao?.
Chẳng cần tới tập thơ Lửa thiêng, chỉ riêng bài thơ Tràng giang cũng làm nên hồn thơ ảo não - Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng giang.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nếu như trong ba khổ thơ đầu tâm trạng buồn - nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên (Huy Cận) của thi nhân trải dài theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kỳ vĩ, lạ lùng, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi bóng chiều sa. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi Tràng giang lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ, lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành núi bạc. Đó là cảnh thực, song cũng là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết hình tượng núi bạc, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp tinh tế và đó là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh núi bạc ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ đùn: Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự ông học được chữ đùn trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)... Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cũng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiệp, gợi lên cái buồn vắng, trông trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó là một cánh chim nghiêng cánh nhỏ và đang chở nặng bóng chiều sa cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh núi bạc hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến Tràng giang đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và Tràng giang đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe lời tự bình của tác giả:
Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quả và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thía vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô độc, lạc đàn nghiêng cánh nhỏ trong Tràng giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nồi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo cánh chim mỏi cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, bóng chiều sa ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét:
Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy - tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đeo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ...
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo trĩu xuống theo hình ảnh bóng chiều sa. Chữ sa rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ sa ấy, chứ không phải là xa, bởi nếu đó là bóng chiều xa thì nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm ra được lối ra nên như kéo dài triền miên của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi sầu nhân thế như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian bóng chiều sa ấy và nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hồn cũng nhớ nhà
Trong suốt hành trình Tràng giang, ta luôn bắt gặp những từ láy điệp điệp, song song, đìu hiu, lớp lớp... tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết và nốt nhạc kết thúc là dợn dợn, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng.
Dờn dợn diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh mây trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang)
Hay
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc lâu — Tản Đà dịch)
Gợi ý của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Cũng là tấm tình quê của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm tình quê ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường, hiện đại ở cách nói trái ngược ý Thôi Hiệu - một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy lãng mạn. Xưa kia đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt - không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng tình quê của Huy Cận vẫn trào dâng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái nhớ ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh - nơi chôn nhau cắt rốn mà còn nhớ nhà nên hiểu theo nghĩa rộng, là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận đã nói: Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn thê thiết, sâu lắng thì như kéo dài vang vọng mãi theo âm điệu dập dềnh như sóng nước Tràng giang của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống - những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng thi nhân - nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm trạng ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim - lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang sầu thiên cổ
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối - khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Với hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng ảo não, càng buồn bấy nhiêu.
Ai đó đã nói: thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao quý - tình yêu đất nước.
Chẳng cần tới tập thơ Lửa thiêng, chỉ riêng bài thơ Tràng giang cũng làm nên hồn thơ ảo não - Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng giang.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Nếu như trong ba khổ thơ đầu tâm trạng buồn - nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên (Huy Cận) của thi nhân trải dài theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kỳ vĩ, lạ lùng, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi bóng chiều sa. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi Tràng giang lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ, lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành núi bạc. Đó là cảnh thực, song cũng là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết hình tượng núi bạc, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp tinh tế và đó là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh núi bạc ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ đùn: Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự ông học được chữ đùn trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)... Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cũng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiệp, gợi lên cái buồn vắng, trông trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó là một cánh chim nghiêng cánh nhỏ và đang chở nặng bóng chiều sa cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh núi bạc hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến Tràng giang đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và Tràng giang đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe lời tự bình của tác giả:
Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quả và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thía vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô độc, lạc đàn nghiêng cánh nhỏ trong Tràng giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nồi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo cánh chim mỏi cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, bóng chiều sa ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét:
Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy - tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đeo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ...
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo trĩu xuống theo hình ảnh bóng chiều sa. Chữ sa rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ sa ấy, chứ không phải là xa, bởi nếu đó là bóng chiều xa thì nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm ra được lối ra nên như kéo dài triền miên của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi sầu nhân thế như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian bóng chiều sa ấy và nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Trong suốt hành trình Tràng giang, ta luôn bắt gặp những từ láy điệp điệp, song song, đìu hiu, lớp lớp... tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết và nốt nhạc kết thúc là dợn dợn, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng.
Dờn dợn diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh mây trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua Đèo Ngang)
Hay
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc lâu — Tản Đà dịch)
Gợi ý của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Cũng là tấm tình quê của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm tình quê ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường, hiện đại ở cách nói trái ngược ý Thôi Hiệu - một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy lãng mạn. Xưa kia đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt - không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng tình quê của Huy Cận vẫn trào dâng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái nhớ ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh - nơi chôn nhau cắt rốn mà còn nhớ nhà nên hiểu theo nghĩa rộng, là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận đã nói: Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn thê thiết, sâu lắng thì như kéo dài vang vọng mãi theo âm điệu dập dềnh như sóng nước Tràng giang của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống - những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng thi nhân - nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm trạng ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim - lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang sầu thiên cổ
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối - khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Với hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng ảo não, càng buồn bấy nhiêu.
Ai đó đã nói: thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao quý - tình yêu đất nước.