Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Đề: Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu. ''Bướm ong thì có tuần tháng mật, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt người thì có ánh sáng...'' BÀI LÀM Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ ...
Đề: Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu. ''Bướm ong thì có tuần tháng mật, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt người thì có ánh sáng...''
BÀI LÀM
Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thìa tình yêu cuộc sống nồng nàn. Nhưng, nếu cần dẫn ra một bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu, thơ tình yêu ấy trong thơ Xuân Diệu, đó sẽ là một bài thơ trong tập Thơ thơ, được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi tươi đẹp của nhà thơ: bài thơ Vội vàng. Đúng như tên gọi, Vội vàng là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy mình phải vội vàng, phải gấp gáp nhận lấy.
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bô" về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng di Cho màu dừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương dừng bay di.
Tắt nắng đi ư? Buộc gió lại ư? Đó là những điều không ai có thể làm được, những khát khao thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đôi với trái tim nhà thơ, bởi đó là một trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muôn sông đến trọn vẹn chữ sông, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết chừng nào! Trong cuộc sống này, tất cả đều kì diệu, bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình. Hãy nghe Xuân Diệu kể:
Của ong bướm này dây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh ri Này dây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Bướm ong thì có tuần tháng mật, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt người thì có ánh sáng... Những câu thơ của Xuân Diệu nhanh gấp trong một nhịp điệu dạt dào. Không thể nào kế cho hết, đếm cho xuể vẻ đẹp của đời. Ai bảo cuộc đời đáng chán? Cuộc đời đáng sông biết bao! Với Xuân Diệu, cuộc sống lúc nào cũng tràn trề niềm vui, người ta gặp niềm vui hết ngày này qua ngày nọ. Niềm vui như một vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Đó là cuộc đời trong độ đẹp nhất của cuộc đời, đó là mùa xuân. Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam, chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Có một điều đáng lưu ý, bởi đây là một đặc điểm của thơ Xuân Diệu: Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp con người như ta vẫn gặp trong thơ cố mà lại thây vẻ đẹp con người làm
chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong thơ Nguyễn Du, nhan sắc của Thuý Vân:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Còn Xuân Diệu thì: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Con người bao giờ cũng là điều tuyệt diệu.
Có một cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống, có những sắc màu tuyệt diệu như vậy để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Tuy vậy, đến đây, như một bản đàn đang vút cao bỗng chùng xuống, những câu thơ của Xuân Diệu cũng chùng xuống. Xuân Diệu nói:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi vì sao? Bởi vì Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy sẽ ngắn ngủi biết bao:
Tôi không chờ nấng hạ mới hoài xuân Xuân dương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Xưa nay, người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi, chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trờ thành quá khứ, chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã không còn. ở đây, với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đốn độ đấm say, Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân cả khi mùa xuân đang còn, ngay cả khi mùa xuân mới đến. Nhà thơ biết rằng mùa xuân sẽ trôi qua nhanh, mà hình như với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, nó còn trôi nhanh gấp bội, nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ đi qua, cái đang non trẻ, thắm tươi rồi sẽ già nua, tàn úa. Điều ấy có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với Xuân Diệu:
Và xuân hết nghĩa là tôi củng mất
Câu thơ của Xuân Diệu thật là buồn bã, bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua, mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời nào có ý nghĩa gi nữa. Quý giá nhất của cuộc đời, của đất trời, là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ.
Con người khao khát vô tận nhưng cuộc sống lại có quy luật của nó, chặt chẽ vô cùng, nghiệt ngã vô cùng.
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy, cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé hơn nữa, nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ớ đời, nhà thơ đã từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi, mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế, không những người ta không tự an ủi được mình, mà chí càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình:
Nói làm chi ràng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chảng hai lần thắm lại Còn trời đất nhưng chẳng con tôi mãi Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý, chỉ đẹp khi con người có thể biết được, hưởng được cái mùa xuân ấy. Không có con người, hay con người không được hưởng, thì mùa xuân có đó mà làm gì? Bởi vậy, những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang một giọng buồn bã.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thẩm tiễn biệt Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay di Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sấp sửa.
Tất cả đều buồn bã, tất cả đều mất hết V vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi” với “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn nỗi phải bay đi”, chỉ “sợ dộphai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam cả phong trào Thơ mới, chưa ai có giọng thơ nuôi tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha đến như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu âm thanh ấy, ở đoạn trôn náo nức, rạo rực là thế, mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao, tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thây rõ ràng mùa xuân đã mất, tuổi trẻ đã qua, nhà thơ đã kêu lên một cách tuyệt vọng:
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa
Nỗi đau đớn phải thật chân thành để Xuân Diệu có tiếng kêu như thế. Còn làm được gì nữa bây giờ? Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và đời người cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được nữa để biến cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian, với mùa xuân mãi mãi của đất trời? Chỉ còn một cách, ấy là biến cái hữu hạn về lượng thành ra cái vô hạn về chất, nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt, phải sống để thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đê, quý giá của đời sông, của mùa xuân, của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua, tuổi trẻ sắp hết. Xuân Diệu giục giã: Mau di thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm Ta muốn ôm
Cả sự sông mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suôi ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấy nhau để tạo theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn thâu; lại còn: một cái hôn nhiều, chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Trong một dòng thơ, Xuân Diệu bắt đầu bằng từ “Và”, lại có đến 3 từ “và”. Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, đến cuông
quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sông như thế với Xuân Diệu mới thực là sông. Sông như thô mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sông:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã dầy ánh sáng.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, là ánh sáng, là thanh sắc, tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: chếnh choáng, đã dầy, no nê.
Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân, như một cái gì quý nhất, trọn vẹn, như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ:
Hỡi xuân hổng, ta muốn cán vào ngươi.
Thật không có thồ còn nói được gì hơn về nỗi rạo rực của tình yêu đôi với cuộc sống!
Gần 50 năm trước, Xuân Diệu đã linh cảm cái ngắn ngủi của đời, chỉ lo sợ không được cùng với thời gian tồn tại. Lạ thay, chính từ niềm lo sợ ây, những bài thơ của Xuân Diệu đã sông mãi với thời gian. Bây giờ, sau khi nhà thơ đã nằm xuống hơn 10 năm, đọc lại những bài thơ như bài Vội vàng này, ta bỗng nhận ra rằng: Xuân Diệu mãi mãi trẻ trung; hôm nay và mai sau cũng vậy. (L. D. C)
Đề; Phân tích bài thơ Vội vàng cua Xuân Diệu. _____________________
BÀI LÀM
Khao khát giao cảm với đời, ham muôn sông mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là đặc điểm của thơ Xuân Diệu. Ớ mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông, ta đều thấy cái chất Xuân Diệu ấy.
Nếu trong Tỏa nhị Kiều là một tấm lòng yêu thương người phải sông một cuộc sống buồn tẻ, mờ nhạt, thì trong Vội vàng là một tấm lòng, một tâm hồn yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt trước cuộc sống “mới bắt đầu mơn mởn”. Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó “vội vàng” cuông quýt, ham muôn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân Diệu.
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Ý muôn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muôn ôm tất cả, muôn giữ lại tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó? Ý muôn của Xuân Diệu lớn quá, mạnh mẽ quá, như chính hồn ông vậy? “Muốn tắt nắng di”, “muốn buộc gió lại” có vẻ không ngoài ý muôn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại cái đẹp, giữ lại thời gian... Những ý muôn, những hành động của ông cứ mạnh dần lên, lớn hơn lên: “tắt nắng” rồi lại “buộc gió”; cũng như sự “lớn” cùa lòng ham muôn của niềm khao khát trước cuộc sống tràn trề
đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ “này dây”, “này đây” đặt song song như sự sắp đật những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở quyên rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua “cặp mắt xanh non” của nhà thơ, cuộc sống trần thê xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú giàu có. cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng “biếc rờn” “man mởn”. Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu “nỗi buồn thê hệ”, nhưng không có phần chán chường tuy buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp, đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn - quay lưng lại thực tại một cách gay gắt, quyết liệt; hay như Huy Cận chán nản, bố tắc trong những vần thơ; hoặc đi tìm nơi tiên cảnh như trong thơ Thê' Lữ, thơ Xuân Diệu luôn toát lên niềm ham sông mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả như gợi lên sự tận hướng, gợi lên niềm khát khao tình yêu và cuộc sống. Cảnh vật dầy hứa hẹn tương lai, hạnh phúc; và với Xuân Diệu, cuộc đời luôn đầy ắp niềm yêu. Và đây, tháng giông hiện ra thật quyên rũ, hấp dẫn:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Một câu thơ lạ, thật gợi cảm bởi lôi ví von so sánh. “Tháng giêng” là tháng đẹp nhất của mùa xuân, mùa xuân là “mùa” đẹp nhất của thời gian. Mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa lá xanh tươi, con người trẻ trung yêu đời, ngập tràn nhựa sống. Thiên nhiên tươi đẹp, lòng người xốn xang... được Xuân Diệu ví với “cặp môi gần”. Nếu thơ truyền thông lấy chuẩn mực cái đẹp là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp lại là con người. Cái hay, cái đẹp, cái mới của hồn thơ Xuân Diệu, có thể nói cái rất Xuân Diệu phần nào là ở đó. Khác với Nguyền Du tả mùa xuân tươi đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên; khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa xuân đáng yêu là thế mà thi nhận chối bỏ gay gắt, quyết liệt:
Ai dâu trở lại mùa thu trước Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa rơi, muôn cánh rã Về đây, đem chắn nẻo xuân sang!
Đôi với Xuân Diệu, mùa xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. Ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chê' Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách nồng nhiệt, thiết tha. Bơi lẽ, ông đang ý thức một thời xuân. “Cặp mắt xanh non”, “biếc rờn” của nhà thơ chạm vào cái gì cũng thấy đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dần: “ngon như một cặp môi gần”. “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” là một câu thơ thật trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần “ngon nhất” của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh, vừa ngụ tình - đó là tình Xuân Diệu: khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, thiết tha yêu cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã “say sưa”, “chếnh choáng” trước vẻ đẹp “no nê”, “dã dầy” ánh sáng và hương sắc của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bôn mùa của một năm, chi tồn tại một thời gian ngắn đê rồi mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nôn
xuân mang trong nó tính thời gian, nghĩa là đang chuyển động:
Xuân dương tươi, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Khát khao giao cảm với đời, nên Xuân Diệu nhạy cảm, khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên. Ông đang chứng kiến sự chuyên vần, thay đổi nhanh chóng của mùa xuân, đang chứng kiến thời gian trôi qua, và cái hữu hạn đời người. Xuân sẽ đi qua cuộc đời sẽ đi qua, nhưng thời gian vẫn mãi mãi trường tồn cùng vũ trụ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng hấp tấp, vội vàng, để tận hưởng hết phần quý nhất, đẹp nhất của dời. Lúc nào Xuân Diệu cũng cuông quýt, vội vã, giục giã:
- Mau với chứ, VỘI vàng lên với chứ!
- Gấp di em, anh rất sợ ngày mai!
- Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm!
“Mau đi thôi”, vì xuân của cuộc đời đang qua đi, mà bi đát thay, nó lại không được “tuần hoàn” như xuân của trời đất. Cuộc đời, tuổi xuân đi qua là không bao giờ trở lại. Nhịp thơ, câu thơ như cũng đang “vội vàng” gấp gấp, nhanh nhanh, dồn dập. Lúc nào cùng cuông quýt, cũng “gấp đi em”, chính là Xuân Diệu lớn quá, hồn thơ Xuân Diệu mênh mông quá, nên mới “bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Xuân Diệu là thê đấy!
Ta muốn ôm,
Cả sự sống mới bát đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tỉnh yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều.
Chữ “ôm” như gói trọn “Cả sự sống mới bắt dầu mơn mởn”, như ghì riết, ôm hôn tất cả để giữ lại tất cả. “Cặp mắt biếc rờn” của nhà thơ như đang muôn khám phá hết thảy những bí ẩn của thế giới thiên nhiên, như thấy tất cả đang căng đầy, tràn trề nhựa sông. Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã và đang làm cho những thê hệ bạn đọc trẻ tuổi kinh ngạc khi thưởng thức thơ ông. Lời thơ cuồng nhiệt, trần thế quá. Nhưng đó chính là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha yêu sự sông, yêu cuộc đời, muôn được “chếnh choáng”, “no nê” trong sự tận hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà kì diệu, một niềm vui tột bậc khi nhà thơ buông ra câu kết:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cẩn vào ngươi!
Mùa xuân như một trái chín hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động đê đến cái đích: “cắn vào ngươi! ”. Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước tình yêu, trước cuộc đời mãi mãi là khát vọng, là ham muôn chưa toại nguyện. Xuân đẹp quá, gần quá mà chưa ôm trọn được.
Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tàm lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thê hiện một quan niệm nhân sinh mới “chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống”. Đó là thái độ sông
tích cực, sống hết mình, sông “say siía”, sông cuồng nhiệt của Xuân Diệu.
Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. Mặc dù, có thể còn không ít cách cảm nhận khác nhau, nhưng nhìn chung, bài thơ khiến phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sông trên trái đất này, và càng quý trọng tuổi thanh xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sông hoài, sống phí. Xuân Diệu mãi mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trỏ chính vì lẽ đó.