Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối)
Đề bài: Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối) trong Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) của Hồ Chí Minh. Mộ (Chiều tối) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối ...
Đề bài: Bình giảng bài thơ Mộ (Chiều tối) trong Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) của Hồ Chí Minh. Mộ (Chiều tối) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai ...
Đề bài: trong Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) của Hồ Chí Minh.
Mộ (Chiều tối) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 31 trong tập Nhật kí trong tù. Hồ Chí Minh viết bài thơ này đang trên đường bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Sau một ngày dài bị giải đi, trời tối dần. Hai câu đầu tả cảnh bầu trời lúc chiều tối. Cánh chim mỏi (quyện điểu) về rừng tìm cây trú ẩn. Áng mây lẻ loi, cô đơn (cô vân) trôi lững lờ trên tầng không. Cảnh vật thoáng buồn. Hai nét vẽ chấm phá (chim và mây), lấy cái nhỏ bé, cái động để làm nổi bật bầu trời bao la, cảnh chiều tối lặng lẽ và buồn. Cánh chim mỏi và áng mây cô đơn là hai hình ảnh vừa mang tính ước lệ trong thơ cổ tả cảnh chiều tối, vừa là hình ảnh ẩn dụ về người tù bị lưu đày trên con đường khổ ải mờ mịt vạn dặm:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Trời tối rồi, tù nhân bị giải đi qua một xóm núi. Có bóng người (thiếu nữ), có cảnh làm ăn bình dị (xay ngô), có lò than đã rực hồng (lô di hồng). Các chi tiết nghệ thuật ấy làm hiện lên một mái ấm gia đình, một cảnh đời dân dã, bình dị, ấm áp. Nếu chim trời, áng mây chiều đồng điệu với tâm hồn nhà thơ thì cảnh xay ngô của thiếu nữ và lò than rực hồng kia như đang làm vợi đi ít nhiều nỗi đau khổ của người đi đày khi qua nơi mỉền sơn cước xa lạ. Tương phản với màn đêm bao trùm không gian, cảnh vật là lò than đã rực hồng. Tứ thơ vận động từ bóng tối hướng về ánh sáng. Nó cho ta thấy, trong cảnh ngộ cô đơn, nặng nề, bị tước mất tự do, bị ngược đãi, người chiến sĩ cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn gắn bó, chan hòa, gần gũi với nhịp đời thường cần lao. Câu thơ thứ ba dịch chưa được hay. Chữ “cô em” hơi lạc điệu. Thêm vào một chữ “tối” đã mất đi ý vị “ý tại ngôn ngoại” vẻ đẹp hàm súc của thơ chữ Hán cổ điển:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.
Bài thơ có cảnh bầu trời và xóm núi, có áng mây, cánh chim chiều. Chim về rừng, mây lơ lửng. Có thiếu nữ xay ngô và lò than hồng. Đằng sau bức tranh cảnh chiều tối là một nỗi niềm buồn, cô đơn, là một tấm lòng hướng về nhân dân láo động, tìm thấy trong khớảnh khắc chiều tối. Nghệ thuật mượn cảnh để tả tình. Điệu thơ nhè nhẹ, man mác bâng khuảng, đậm đà màu sắc cổ điển. Tinh tế trong biểu hiện, đậm đà trong biểu cảm là vẻ đẹp trữ tình của bài thơ Chiều tối này…, rất nhân hậu, rất người.
Từ khóa tìm kiếm
- bình giảng bài thơ chiều tối
- bình giảng bài chiều tối
- bài giảng chiều tối
- binh gianh bai tho chieu toi
- bjnh baj chjeu toj
- lời bình về chiều tối
- Pdf bình giảng chiều tối