25/05/2018, 14:17

Bầu cử ở Việt Nam

là quá trình các cử tri của quốc gia này đưa ra quyết định của họ theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong ...

là quá trình các cử tri của quốc gia này đưa ra quyết định của họ theo các cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương).

Thông thường, các cuộc bầu cử được tiến hành khi các cơ quan dân cử (hay cơ quan quyền lực nhà nước) hết nhiệm kỳ. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, nhiệm kỳ của Quốc hội mỗi khóa là năm năm, tương tự, năm năm cũng là nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp chính vì vậy cứ năm năm một lần, ở Việt Nam lại định kỳ tiến hành bầu cử Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Tại Việt Nam, các cuộc bầu cử có tính chất pháp lý rất quan trọng, đó là một khâu quan trọng để thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương. Là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.

Thuật ngữ bầu cử ở Việt Nam được cho là gắn mật thiết với khái niệm dân chủ, trong đó những cuộc bầu cử tự do và công bằng là phương thức đảm bảo cho việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ đó. Trong một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của người dân (người bị quản lý). Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.

Bầu cử cũng được hiểu là cách thức nhân dân trao quyền cho Nhà nước và với tư cách là một chế độ tiên tiến, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thể bằng một phương pháp nào khác hơn là bầu cử để thành lập ra các cơ quan của mình.

Cuộc bầu cử là một trong những hình thức hoạt động xã hội – chính trị quan trọng của nhân dân. Bầu cử thu hút sự tham gia đông đảo của cử tri đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, giới tính… Bởi vậy để đạt được kết quả, các cuộc bầu cử phải được tiến hành có tổ chức, theo những tình tự chặt chẽ nhất định.

Những trình tự thủ tục này được pháp luật quy định rất chặt chẽ, ở Việt Nam có hàng lọat các văn bản pháp luật điều chỉnh về bầu cử từ Hiến pháp – văn bản có hiệu lực pháp luật cao nhất đến các đạo luật hiện hành như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và năm 2007 (gọi chung là Luật bầu cử đại biểu Quốc hội ) Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003 và cho đến các văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ cụ thể hóa và hướng dẫn chi tiết các văn bản nên trên.

1 Quyền bầu cử, ứng cử

2 Các nguyên tắc bầu cử

3 Trình tự tiến hành bầu cử

3.1 Ấn định ngày bầu cử

3.2 Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử

3.3 Hội đồng bầu cử

3.4 Ủy ban bầu cử

3.5 Tổ bầu cử

3.6 Sự tham gia của các cơ quan hữu quan

3.7 Về kinh phí họat động

3.8 Phân chia đơn vị bầu cử

3.9 Xác định khu vực bỏ phiếu

3.10 Lập danh sách cử tri

3.11 Giới thiệu ứng cử viên

3.12 Hiệp thương lập danh sách ứng cử viên

3.13 Vận động bầu cử

3.14 Bỏ phiếu

3.15 Kiểm phiếu

3.16 Xác định kết quả bầu cử

3.17 Công bố kết quả bầu cử

3.18 Bầu cử thêm, bầu bổ sung

4 Quy định mới đối với việc bầu cử Hội đồng nhân dân

5 Nhận định

5.1 Theo các nhà chức trách hữu quan

5.2 Phương tiện truyền thông trong nước

5.3 Phương tiện truyền thông quốc tế

5.4 Một số ý kiến của các nhà nghiên cứu

6 Tài liệu tham khảo

7 Chú thích

8 Xem thêm

Quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là một trong những quyền cơ bản về chính trị của công dân. Pháp luật hiện hành đã quy định công dân có quyền bầu cử, có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Theo đó, công dân Việt Nam đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội. Những công dân này không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú đều được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu cử.

Mặc dù vậy, cũng có những công dân đủ các điều kiện trên nhưng không được ghi tên vào danh sách cử tri là các trường hợp người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật hay người đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc người đang bị tạm giam và người mất năng lực hành vi dân sự. Những quy định kiểu như vậy cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ngoài ra, những người sau đây cũng không được tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội gồm: Những người không được tham gia bầu cử thì đương nhiên không được ứng cử, người đang bị khởi tố về hình sự, người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án hoặc đã chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích hay là những người đang chấp hành quyết định xử lý hành chính khác.

Các nguyên tắc bầu cử là các quy tắc, nguyên lý chỉ đạo được áp dụng cho quyền bầu cử chủ thể (quyền bầu cử chủ động và quyền bầu cử bị động). Nguyên tắc bầu cử là điều kiện được quy định bởi pháp luật bầu cử của mỗi nước, mà việc thực hiện và tuân thủ quy định đó trong quá trình bầu cử quyết định tính hợp pháp của cuộc bầu cử.

Các nước trên thế giới áp dụng các nguyên tắc bầu cử sau: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp (gián tiếp) và bỏ phiếu kín. Những nguyên tắc đó thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử được khách quan, dân chủ, thực hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn đại biểu.

Nguyên tắc bầu cử được thể hiện chặt chẽ, thống nhất và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tiến hành bầu cử, bảo đảm cho cuộc bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Nguyên tắc bầu cử yêu cầu phải quy định rõ quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm các quy định về bầu cử.

Ở Việt Nam, các nguyên tắc bầu cử dân chủ được kế thừa, bổ sung và phát triển để làm một căn cứ thực hiện một chế độ bầu cử mới thực sự dân chủ. Các nguyên tắc bầu cử theo quy định của pháp luật gồm bốn nguyên tắc đó là phổ thông, bình đẵng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Điều 7 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẵng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.

Những nguyên tắc bầu cử ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành phù hợp với các nguyên tắc bầu cử thông dụng trên thế giới.

Trình tự tiến hành cuộc bầu cử là vấn đề trung tâm trong việc bầu cử. Đó là một loạt các công việc từ ấn định ngày bầu cử, thành lập đơn vị bầu cử, thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, công tác chuẩn bị bầu cử cho đến việc lập danh sách cử tri, cư tri thực hiện bỏ phiếu và việc kiểm phiếu, công bố kết quả. Đó cũng là một quy trình chặt chẽ được pháp luật quy định nghiêm ngặt.

Trình tự tiến hành một cuộc bầu cử ở Việt Nam gồm các bước sau:

Để tiến hành một cuộc bầu cử, trước hết phải xác định cho được ngày bầu cử (ngày bỏ phiếu). Hiến pháp và Luật bầu cử của đa số các nước chỉ quy định thời hạn chung cho các cuộc bầu cử, còn này bầu cử cụ thể do một quan chức hay cơ quan có thẩm quyền xác định.

Ở Việt Nam, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 150 ngày trước ngày bầu cử. Điều 85 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định: Hai tháng trước khi Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong.

Ngày bầu cử được ấn định phải là ngày chủ nhật để mọi người có điều kiện tham gia một cách đầy đủ.

Điều 54 Luật bầu cử Quốc hội quy định: Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành cùng một ngày trong cả nước. Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là một trăm lẻ năm ngày trước ngày bầu cử.

Việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định ngày bầu cử là công đoạn đầu tiên của công việc tiến hành một cuộc bầu cử. Bắt đầu từ đây, mọi việc có liên quan đến việc bỏ phiếu và xác định kết quả bầu cử bắt đầu được tiến hành.

Trước đây, ở Việt Nam, ngày bầu cử được ấn định chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử nhưng thời hạn này là quá ngắn là cho công tác chuẩn bị bầu cử của các cơ quan tổ chức vốn yếu kém về năng lực lại tỏ ra bị động, lúng túng. Pháp luật hiện hành đã nâng thời gian chuẩn bị bầu cử dài hơn bằng cách kéo dài thời gian chậm nhất phải ấn định từ 60 – 90 ngày, kể cả cuộc bầu cử Quốc hội lẫn các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân.

Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn thì Ban bầu cử phải báo cáo với Uỷ ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.

Trước cuộc bỏ phiếu 10 ngày, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu.

Cử tri chỉ được đi bỏ phiếu đúng vào ngày đã được ấn định trước trên toàn quốc. Tuy vậy, đối với một số vùng miền có khó khăn về giao thông, liên lạc, việc bầu cử có thể tiến hành sớm hơn ngày đã ấn định để kết quả bầu cử có thể kịp chuyển về tổng hợp chung. Trong kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, một số vùng như huyện đảo Trường Sa (Khánh Hoà) và huyện đảo Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng) đã bỏ phiếu sớm hơn

Để tổ chức bầu cử, các nước thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử, thường được gọi là Ủy ban bầu cử. Các loại tổ chức phụ trách bầu cử thông dụng như sau:

Tổ chức bầu cử ở Trung ương: Có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc bầu cử trên phạm vi cả nước.

Tổ chức phụ trách bầu cử ở đơn vị bầu cử: Có nhiệm vụ phối hợp và giám sát hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử ở khu vực bỏ phiếu, lập và đăng ký danh sách ứng cử viên của đơn vị bầu cử, bảo đảm quá trình vận động tranh cử, xác định kết quả bầu cử trong đơn vị bầu cử.

Tổ chức bầu cử ở khu vực bỏ phiếu: Có nhiệm vụ lập danh sách cử tri (nếu không lập thì hiệu đính), tổ chức việc bầu cử và xác định kết quả kiểm phiếu ở khu vực bỏ phiếu.

Tại Việt Nam, việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử được chuẩn bị chu đáo. Các tổ chức phụ trách bầu cử được pháp luật quy định thành lập từ trung ương đến địa phương. Đồng thời, Luật quy định khi ra quyết định thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử thì ấn định luôn các chức danh cụ thể của các tổ chức này, để giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết. Ngoài ra việc phụ trách bầu cử còn được sự hỗ trợ rất lớn từ phía Mặt trận Tổ quốc và Hội đồng nhân dân các cấp.

Các tổ chức phụ trách bầu cử bao gồm:

Giai đoạn tiếp theo của cuộc bầu cử là thành lập Hội đồng bầu cử. Đây là cơ quan lãnh đạo chung cho cuộc bầu cử. Hội đồng bầu cử ở Trung ương được thành lập cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Hội đồng bầu cử Hội đồng nhân dân quận, huyện, xã, phường và cấp tương đương.

Thành phần Hội đồng bầu cử bao gồm đại diện các tổ chức xã hội, tổ chức đảng, Nhà nước.

Hội đồng bầu cử có nhiêm vụ:

1. Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử chung; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử và tiến hành cuộc bầu cử.

2. Quy định mẫu thẻ cử tri và phiếu bầu cử; lập và công bố danh sách ứng cử viên theo từng đơn vị bầu cử.

3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác của Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử do các tổ chức bầu cử cấp dưới chuyển đến; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử; Giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử.

4. Kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử do Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử gửi đến; làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước; Xét và quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử.

5. Công bố kết quả bầu cử trong cả nước, cấp giấy chứng nhận cho đại biểu trúng cử.

Trong các nhiệm vụ trên thì công việc lãnh đạo công việc bầu cử chung, công bố danh sách ứng cử viên và tuyên bố kết quả bầu cử là những công việc quan trọng của Hội đồng bầu cử.

Hội đồng bầu cử Quốc hội ở Trung ương:

Hội đồng này do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập.

Số lượng thành viên được ấn định từ 15 đến 21 người, thành phần gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.

Theo Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải thành lập và công bố thành phần bầu cử trung ương chậm nhất 105 ngày.

Hội đồng bầu cử ở địa phương:

Tương tự, ở địa phương, Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân do Ủy ban nhân dân cùng cấp phối hợp với thường trực Hội đồng nhân dân cấp đó thành lập.

Thời gian thành lập: Chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Thành phần Hội đồng gồm đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Hội đồng bầu cử bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký.

Số lượng thành viên: Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 15 đến 21 người. Cấp huyện có từ 11 đến 15 người. Cấp xã có từ 9 đến 11 người.

Tất cả các công việc chuẩn bị cho một cuộc bầu cử tiếp theo chủ yếu do các đơn vị bầu cử thực hiện.

Lãnh đạo bầu cử ở các đơn vị do Ủy Ban bầu cử (Ban bầu cử) tiến hành. Việc bầu cử về cơ bản lấy đơn vị hành chính cấp huyện là cơ sở, do vậy, mỗi địa phương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể có từ 2 đến 5 đơn vị. Để phụ trách chung công việc bầu cử trong lãnh thổ trực thuộc trung ương có từ hai đơn vị bầu cử trở lên, pháp luật quy định thành lập các ủy ban bầu cử. Ủy ban bầu cử có nhiệm vụ lãnh đạo chung họat động của các ban bầu cử.

Thời gian thành lập:

Chậm nhất là 95 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử. Đối với Hội đồng nhân dân thì gọi là ban bầu cử.

Số lượng và cơ cấu:

Ủy ban bầu cử có từ 9 đến 15 người, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Đối với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, ban bầu cử ở các đơn vị bầu cử do Ủy ban nhân dân và Ủy ban mặt trận tổ quốc cùng cấp phối hợp thành lập gồm đại diện của các tổ chức xã hội và tập thể các cử tri ở địa phương từ 5 đến 15 người. Ban bầu cử gồm có trưởng ban, phó trưởng ban và thư ký ban.

Nhiệm vụ của Ủy ban bầu cử/Ban bầu cử gồm:

1. Chuẩn bị và tổ chức bầu cử ở các đơn vị bầu cử. Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành, chấp hành pháp luật về bầu cử của các tổ bầu cử.

2. Xem xét hồ sơ của người được giới thiệu ứng cử, người tự ứng cử.

3. In thẻ cử tri và phiếu bầu theo mẫu của Hội đồng bầu cử.

4. Lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu cử. Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri.

5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác của Ban bầu cử, Tổ bầu cử. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử do Ban bầu cử, Tổ bầu cử chuyển đến. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về người ứng cử.

6. Nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử; lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở địa phương. Thông báo kết quả bầu cử ở địa phương.

7. Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử; Chuyển hồ sơ, biên bản xác định kết quả bầu cử đến Hội đồng bầu cử. Tổ chức việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có).

Trong tất cả các nhiệm vụ kể trên, nhiệm vụ làm biên bản tổng hợp các biên bản kiểm phiếu do các tổ bầu cử đưa đến để xác định kết quả trúng cử hoặc không trúng cử hoặc không trúng cử cho từng ứng cử viên là rất quan trọng.

Trong trường hợp tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiều cấp (tối đa là ba cấp) cùng một ngày, nếu đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh là huyện thì Hội đồng bầu cử Hội đồng nhân dân huyện kiêm cả nhiệm vụ Ban bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh; nếu đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân huyện là xã thì Hội đồng bầu cử xã làm luôn nhiệm vụ của Ban bầu cử Hội đồng nhân dân huyện.

Phụ trách công việc bầu cử ở khu vực bỏ phiếu là tổ bầu cử. Tổ bầu cử có nhiệm vụ:

Tổ chức việc bầu cử trong khu vực bỏ phiếu.

Bố trí phòng bỏ phiếu, nơi bỏ phiếu (buồng bỏ phiếu), bàn bỏ phiếu và chuẩn bị hòm phiếu.

Phát thẻ cử tri cho cử tri chậm nhất là hai ngày trước ngày bầu cử, phát phiếu bầu cử cho cử tri có đóng dấu của Tổ bầu cử. Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ phiếu.

Kiểm phiếu và làm biên bản kết quả kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu cử. Giao biên bản kết quả kiểm phiếu và toàn bộ phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân cấp xã. Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên (Ủy ban bầu cử, ban bầu cử, Hội đồng bầu cử);

Tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm (nếu có).

Trong các nhiệm vụ trên thì việc phát phiếu bầu cử và kiểm phiếu bầu cử là những nhiệm vụ quan trọng của tổ bầu cử.

Ngoài các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập mang tính lâm thời, phục vụ cho các kỳ bầu cử, luật pháp Việt Nam còn quy định các cơ quan hữu quan khác cũng tham gia vào quá trình bầu cử đó là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (thường được gọi là Mặt trận Tổ quốc) các cấp và Hội đồng nhân dân các cấp.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Mặt trận tổ quốc có vai trò rất lớn trong việc bầu cử. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và tham gia giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội để làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức đại diện khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Bên cạnh đó, để phát huy và đề cao trách nhiệm của Hội đồng nhân dân các cấp với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương trong việc tổ chức và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội, tại Điều 6 của Luật đã xác định rõ vị trí của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh, xã, phường, thị trấn trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp luật.

Và tại các Điều 15, 16 và 17 đã chính thức giao cho Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử; Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập các Tổ bầu cử.

Kinh phí trang trải cho hoạt động của bộ phận phụ trách cũng như trang trải cho toàn bộ cuộc bầu cử được lấy từ ngân sách nhà nước.

Kinh phí dành cho mỗi cuộc bầu cử là khá lớn. Gần đây nhất là cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đã tiêu tốn đến 350 tỷ đồng tăng 1,5 lần so với mức kinh phí của cuộc bầu cử năm 2002 (tốn hết 230 tỉ đồng).

Theo ông Bùi Ngọc Thanh – Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội thì số kinh phí trên sẽ được chia về các địa phương theo nguyên tắc: Đầu tiên là mức kinh phí gốc dành cho tất cả các tỉnh, thành (phục vụ những công việc giống nhau của công tác bầu cử). Sau đó phân chia theo số lượng cử tri của từng tỉnh (lấy từ con số thống kê dân số- do Tổng cục thống kê cung cấp); Cuối cùng mới tính đến các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa… nguồn kinh phí dự phòng sẽ chỉ cấp cho những tỉnh thực sự có khó khăn.

Thực tế ở Việt Nam thường tổ chức các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cùng một ngày và có thể kết hợp chung với các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội để “đỡ tốn kém về mặt vật chất”.

Song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc phân chia đơn vị bầu cử. Đây là một bước hết sức quan trọng, nó xác định số lượng đại biểu cho mỗi vùng, miền, cơ cấu đại biểu... và nó tác động trực tiếp đến kết quả bầu cử. Đặc biệt là việc phân chia này diễn ra rất quyết liệt đối với các nước theo chế độ đa đảng.

Đơn vị bầu cử là một đơn vị địa dư có số dân (cử tri) nhất định được bầu một số lượng đại biểu nhất định. Đơn vị bầu cử là khái niệm chỉ một phạm vi địa lý hành chính với số lượng dân cư nhất định, được bầu một số lượng đại biểu Quốc hội nhất định.

Các đơn vị bầu cử được thành lập trên cơ sở luật định hay bởi chính quyền trung ương. Đơn vị bầu cử có một ghế đại biểu là đơn vị được bầu một đại biểu, đơn vị bầu cử có nhiều ghế bầu cử là đơn vị được bầu từ hai đại biểu trở lên.

Về nguyên tắc các đơn vị được bầu cử được thành lập để bảo đảm sự cân bằng lá phiếu của cư tri, tức là bảo đảm tôn trọng nguyên tắc bình đẳng. Điều đó có nghĩa là những đơn vị có một ghế đại biểu thì phải có dân số như nhau.

Ở Việt Nam, đơn vị bầu cử được hiểu là lãnh thổ với một số dân tương ứng nhất định và được bầu ra một lượng đại biểu Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân nhất định. Cơ sở để phân chia đơn vị bầu cử cho các cuộc bầu cử khác nhau là tổng số đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân phải bầu và số dân sống trên lãnh thổ của đơn vị bầu cử được phân chia. Số đại biểu được bầu cho mỗi đơn vị bầu cử phụ thuộc vào số lượng dân cư sống trên một đơn vị bầu cử.

Ví dụ: Số đại biểu Quốc hội khóa XII được phân bố cho tỉnh Quảng Trị là 06 người trên 2 đơn vị bầu cử, mỗi đơn vị bầu cử là 03 người.

các đơn vị bầu cử. Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu của mỗi đơn vị được tính theo số dân. Ví dụ: số đại biểu Quốc hội khóa XI của thành phố Hồ Chí Minh là 25 đại biểu, là đoàn đại biểu đông nhất cả nước.

Cũng theo quy định của pháp luật thì tổng số đại biểu Quốc hội là không quá 500 người. Đây là con số hợp lý được nhiều nước áp dụng.

Việc phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội cho các tỉnh, thành như sau: Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ít nhất 3 đại biểu cư trú, làm việc tại địa phương. Số đại biểu tiếp theo được tính theo số dân và dặc điểm của mỗi địa phương.

Riêng Thủ đô Hà Nội được phân bổ số đại biểu thích đáng.

Ngoài ra bên cạnh việc phân chia số ghế cho đại biểu theo lãnh thổ, thì ở Việt Nam, việc dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội được bầu của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương, người dân tộc thiểu số, đại biểu là phụ nữ cũng được xem xét để bảo đảm một tỷ lệ thích đáng cho các đại biểu này.

Về nguyên tắc, một nghị viện càng nhiều thành viên thì càng bảo đảm tính đại diện cho tất cả các tầng lớp trong xã hội, quá trình thảo luận càng được sôi nổi, kỹ lưỡng tuy nhiên số lượng như thế nào để đạt hiệu quả còn phải tùy thuộc vào tình hình mỗi nước để ấn định số lượng cho phù hợp.

Dựa trên con số cụ thể được Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định cho mỗi khóa Quốc hội và tổng số dân cư toàn quốc theo số liệu điều tra dân số gần nhất, các đơn vị bầu cử cũng như các địa phương nhận được số lượng đại biểu được bầu tỷ lệ thuận với dân số của đơn vị mình.

Tổng số đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp do Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định theo đó:

Hội đồng nhân dân cấp xã: Tối đa được 35 đại biểu.

Đối với các xã, thị trấn miền xuôi có từ bốn nghìn người trở xuống được bầu 25 đại biểu, có trên bốn nghìn người thì cứ thêm 2.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu.

Các xã, thị trấn miền núi và hải đảo có từ 3.000 người trở xuống đến 2.000 người được bầu 25 đại biểu, có trên 3.000 người thì cứ thêm 1.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu;

Các xã, thị trấn có dưới 2.000 người trở xuống đến 1.000 người được bầu 19 đại biểu (ví dụ: Thị trấn Gio Linh), các xã, thị trấn có dưới 1.000 người được bầu 15 đại biểu.

Các phường có từ 8.000 người trở xuống được bầu 25 đại biểu, có trên 8.000 người thì cứ thêm 4.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 35 đại biểu.

Hội đồng nhân dân cấp huyện và tương đương: Nhiều nhất không quá 40 đại biểu:

Các huyện miền xuôi và quận có từ 80.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 80.000 người thì cứ thêm 10.000 người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.

Các huyện miền núi và hải đảo có từ 40.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 40.000 người thì cứ thêm 5.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.

Các thị xã có từ 70.000 người trở xuống được bầu 30 đại biểu, có trên 70.000 người thì cứ thêm 10.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 40 đại biểu.

Các thành phố thuộc tỉnh (ví dụ: Thành phố Đông Hà) có từ một trăm nghìn người trở xuống được bầu ba mươi đại biểu, có trên một trăm nghìn người thì cứ thêm mười nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá bốn mươi đại biểu.

Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Không quá 95 đại biểu

Đối với các tỉnh miền xuôi và thành phố trực thuộc trung ương có từ 1.000.000 người trở xuống được bầu 50 đại biểu, có trên 1.000.000 người thì cứ thêm 50.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu.

Các tỉnh miền núi có từ 500.000 người trở xuống được bầu 50 đại biểu, có trên 500.000 người thì cứ thêm 30.000 người được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số không quá 85 đại biểu.

Thủ đô Hà Nội và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác có trên 3.000.000 người được bầu không quá 95 đại biểu.

Để việc bỏ phiếu được thuận tiện, mỗi đơn vị bầu cử được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu là đơn vị địa dư thống nhất lượng cử tri nhất định, nơi cử tri tiến hành bỏ phiếu bầu đại diện.

Việc phân chia khu vực bỏ phiếu mang ý nghĩa kỹ thuật thuần túy nhằm tạo điều kiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Các nước tiến hành chia đơn vị bầu cử thành các khu vực bỏ phiếu theo các phương pháp khác nhau.

Ở Việt Nam, lãnh thổ các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện, xã và tương đương thường rất rộng, một số địa phương hiện nay đi lại rất khó khăn mặt khác Việt Nam là một nước nghèo, việc đầu tư cho hệ thống giao thông còn hạn chế, nhiều hệ thống giao thông thi công kém do nhiều nguyên nhân đã nhanh chóng xuống cấp vì vậy gây thêm khó khăn cho việc bầu cử.

Để thuận tiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình, các đơn vị bầu cử này thường phân chia thành các nơi bỏ phiếu (khu vực bỏ phiếu). Mỗi khu vực có thể có từ 300 đến 2.000 cử tri hoặc có thể cao hoặc thấp hơn, miễn là bảo đảm thuận tiện cho cử tri bỏ phiếu đồng thời cũng dễ cho đơn vị bầu cử.

Để đạt được thuận tiện cao nhất, nếu các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân diễn ra cùng một ngày thì có thể tổ chức chung một khu vực bỏ phiếu. Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) các đơn vị bầu cử đồng thời là các khu vực bỏ phiếu nếu thuận tiện.

việc phân chia khu vực bỏ phiếu do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập và được Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Các khu vực bỏ phiếu trong cùng một đơn vị bầu cử có chung một danh sách ở một đơn vị bầu cử.

Điều 12 Luật bầu cử Quốc hội quy định cụ thể như sau: Việc chia khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do Uỷ ban nhân dân cấp xã ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.

Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 300 đến 2.000 cử tri.

Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng có thể thành lập một khu vực bỏ phiếu.

Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập những khu vực bỏ phiếu riêng hoặc đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có thể có chung một khu vực bỏ phiếu.

Bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà hộ sinh, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.

Cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh đối với những người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng.

Nội quy phòng bỏ phiếu:

Để cho cuộc bầu cử có kết quả, đồng thời bảo đảm tính dân chủ, hợp pháp trong cuộc bầu cử, nhất là trong ngày bỏ phiếu, các tổ chức phụ trách bầu cử và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Luật Bầu cử và những văn bản pháp luật về bầu cử. Ngoài ra, mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu.

Nội quy phòng bỏ phiếu là tập hợp các quy định do Tổ bầu cử căn cứ vào điều kiện cụ thể nơi bỏ phiếu đề ra, bảo đảm cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và bảo đảm trật tự, an toàn. Nội quy phòng bỏ phiếu gồm:

1. Các quy định của Luật bầu cử

2. Các quy định về bảo vệ an toàn, an ninh trật tự

3. Các quy định phòng cháy và chữa cháy

4. Một số quy định hướng dẫn cách thức bỏ phiếu.

5. Cách khắc phục và bảo vệ bình chữa cháy.

Thùng phiếu (hòm phiếu):

Tại các khu vực bỏ phiếu, tùy tình hình cụ thể của từng nơi, người ta thường bố trí ít nhất là một hòm phiếu, nhiều nơi bố trí từ hai đến ba hòm phiếu để cử tri đến bỏ phiếu.

Những địa điểm đặt hòm phiếu như vậy được hiểu là hòm phiếu chính và yêu cầu tất cả các cử tri có tên ghi trong danh sách cử tri đều đến bỏ phiếu trực tiếp.

Ngoài ra, tại mỗi khu vực bỏ phiếu, tổ bầu cử thường chuẩn bị hòm phiếu phụ để trong trường hợp lý do đặc biệt nào đó (ốm đau, già yếu...) cử tri không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm phiếu này và phiếu bầu đến tận chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và trực tiếp bỏ phiếu bầu.

Hình dáng, kích thước của hòm phiếu phụ nhỏ hơn hòm phiếu chính. Nhưng, trước khi tiến hành bỏ phiếu ở hòm phiếu phụ cũng phải tuân thủ các bước như ở địa điểm bỏ phiếu chính thức (phải kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri, niêm phong hoặc khóa lại và niêm phong rồi mới tiến hành bỏ phiếu).

Để thực hiện quyền bầu cử của mình, công dân phải đăng ký, ghi tên vào danh sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm mục đích bảo đảm quyền bầu cử của công dân mà còn ngăn chặn hiện tượng gian lận trong bầu cử. Có hai phương pháp lập danh sách cử tri đó là bắt buộc và tự nguyện.

Phương pháp bắt buộc là việc lập danh sách do nhà nước hay tổ chức phụ trách ở khu vực bỏ phiếu lập. Phương pháp này còn chia thành hai loại danh sách cử tri thường xuyên và tạm thời.

Danh sách cử tri thường xuyên là danh sách được lập hàng năm không phụ thuộc vào năm đó có tiến hành bầu cử hay không.

Danh sách cử tri tạm thời là danh sách cử tri được lập vào những năm tiến hành bầu cử. Trước mỗi cuộc bầu cử các cơ quan có thẩm quyền mới lập danh sách cử tri và danh sách này không còn giá trị khi cuộc bầu cử kết thúc.

Phương pháp tự nguyện: Cử tri chỉ cần mang theo giấy tờ tùy thân đến cơ quan có thẩm quyền để đăng ký bỏ phiếu.

Ở Việt Nam áp dụng phương pháp lập danh sách bắt buộc khi cử tri tại địa điểm nào thì phải đăng ký danh sách tại nơi đó. Khẩu hiệu thường thấy trong các cuộc bầu cử là: “Bầu cử là quyền và nghĩa vụ của công dân”.

Cần lưu ý là việc lập danh sách theo phương pháp bắt buộc nhưng việc bỏ phiếu (đi bầu) lại hoàn toàn tự nguyện. Các công dân có thể tùy ý đi bỏ phiếu hoặc không mà không phải chịu bất cứ một chế tài nào cả.

Theo quy định của pháp luật, những người có quyền bầu cử được ghi tên vào danh sách cử tri nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Danh sách cử tri này do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu. Sau đó, cơ quan này phải niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở và những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời phải thông báo rộng rãi việc niêm yết này cho cộng đồng dân cư.

Việc lập danh sách cử tri ở Việt Nam được lập là danh sách cử tri theo danh sách cử tri tạm thời. Nhà nước quy định việc lập danh sách cử tri theo các cuộc bầu cử và phục vụ luôn cho cuộc bầu cử. Khi kết thúc cuộc bầu cử thì danh sách cử tri cũng hết hiệu lực pháp lý.

Người có tên trong danh sách cử tri mới có quyền bầu cử. Cử tri là công dân Việt Nam không phân biệt điều kiện, từ 18 tuổi trở lên thì được đăng ký vào danh sách cử tri.

Ở Việt Nam, cách tính tuổi để công dân bầu cử, ứng cử như sau:

Tuổi để thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của công dân được tính từ ngày, tháng, năm sinh ghi trong Giấy khai sinh đến ngày bầu cử đại biểu Quốc hội.

Đối với trường hợp không có Giấy khai sinh thì căn cứ vào sổ hộ khẩu hoặc Giấy chứng minh nhân dân để tính tuổi thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Mỗi tuổi tròn được tính từ ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm trước đến ngày, tháng, năm sinh (dương lịch) của năm sau.

Trường hợp không xác định được ngày sinh thì lấy ngày 01 của tháng sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử. Trường hợp không xác định được ngày và tháng sinh thì lấy ngày 01 tháng 01 của năm sinh làm căn cứ để xác định tuổi thực hiện quyền bầu cử và ứng cử.

Việc lập và niêm yết danh sách cử tri phải được thực hiện chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử. Mỗi cử tri được ghi rõ họ tên, năm sinh vào danh sách cử tri.

Khi phát hiện thấy có sai sót trong việc lập danh sách thì cử tri báocáo (bằng miệng hoặc bằng văn bản) với cơ quan lập danh sách cử tri. Họ có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị về những sai sót này.

Ngoài việc lập danh sách cử tri theo đơn vị cư trú do Ủy ban nhân dân cấp xã lập thì đối với những người trong lực lượng quân đội, cảnh sát thì danh sách cử tri của họ sẽ do chỉ huy đơn vị lập.

Tuy vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho quân nhân thực hiện quyền bầu cử của mình, pháp luật hiện hành cũng cho phép quân nhân có hộ khẩu thường trú ở địa phương gần khu vực họ đóng quân thì có thể được ghi tên vào danh sách cử tri nơi thường trú và được tham gia bỏ phiếu ở địa phương đó.

Thông thường, mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở một nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền được ghi tên và bỏ phiếu ở nơi khác. (Với điều kiện phải có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký danh sách cử tri) Ủy ban nhân dân nơi cử tri đã đăng phải ghi ngay vào danh sách bên cạnh tên cử tri “Đi bỏ phiếu nơi khác”.

Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin khác của địa phương.

Đối với việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp còn có các quy định khác như: Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri nơi mình cư trú. Trong thời gian lập danh sách cử tri, những người thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp huyện được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh; thay đổi nơi cư trú trong phạm vi một đơn vị hành chính cấp tỉnh được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.

Cử tri là sinh viên, học sinh, học viên ở các trường chuyên nghiệp, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp và cử tri là quân nhân ở các đơn vị vũ trang nhân dân được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện ở nơi tạm trú hoặc đóng quân.

Giới thiệu ứng cử viên hay đưa người ra ứng cử là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, vì cử tri chỉ được lựa chọn bầu trong số những ứng cử viên là đại diện cho mình. Hay nói một cách khác chính giai đoạn này xác định phạm vi nhất định những cá nhân mà trong số đó sẽ bầu ra đại biểu của cơ quan dân cử trung ương hay địa phương.

Hiện nay, trên thế giới phổ biến các phương pháp đưa người ra ứng cử như: tự ứng cử, ứng cử viên được đề cử bởi nhóm cử tri, ứng cử viên được đề cử bởi đảng chính trị hay tổ chức xã hội – chính trị mà biến dạng của nó là phương pháp Praimeris ở Mỹ là phương pháp đề cử ứng cử viên dựa vào ý kiến của cử tri.

Ở Việt Nam, song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc giới thiệu ứng cử viên. Đây cũng là giai đoạn cực kỳ quan trọng của cuộc bầu cử. Sự dân chủ không chỉ thể hiện trong khi xác định kết quả bầu cử mà còn ngay từ khi giới thiệu ứng cử viên. Nếu công dân không được giới thiệu ra ứng cử, không lập được danh sách ứng cử thì không có cơ hội để trở thành đại biểu được.

Về mặt nguyên tắc, chủ thể giới thiệu ứng cử viên càng rộng bao nhiêu thì thể hiện sự dân chủ bấy nhiêu của giai đoạn này. Pháp luật hiện hành không hạn chế việc giới thiệu ứng cử viên của các tổ chức chính trị - xã hội và ứngcử viên cũng không bắt buộc phải nộp một khoản tiền ký quỹ để tranh cử.

Pháp luật hiện hành đề cao vai trò của mặttrận tổ quốc Việt Nam trong việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Mặt trận tổ quốc là chủ thể duy nhất lập danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân.

Pháp luật quy định việc tự ứng cử của công dân nếu đủ điều kiện về độ tuổi,năng lực và sự tín nhiệm của cử tri. Những ứng cư viên này được mặt trận giớithiệu về các nơi ở cơ sở và nơi côngtác để họ đuợc góp ý trước khi được mặt trận tổ quốc hiệp thương lập danh sách ứng cử viên chính thức.

Việc giới thiệu ứng cử viên:

Ở tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội thì Ban lãnh đạo của tổ chức đó dự kiến người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.

Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Ban lãnh đạo tổ chức hội nghị Ban Thường vụ mở rộng, Ban Thường trực mở rộng hoặc Đoàn Chủ tịch mở rộng để thảo luận, giới thiệu người của tổ chức mình ứng cử đại biểu Quốc hội.

Ở cơ quan Nhà nước thì Ban lãnh đạo cơ quan phối hợp với Ban Chấp hành công đoàn dự kiến người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.

Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, Thủ trưởng cơ quan tổ chức hội nghị gồm Ban lãnh đạo cơ quan, Ban Chấp hành công đoàn, đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc để thảo luận, giới thiệu người của cơ quan mình ứng cử đại biểu Quốc hội.

Ở đơn vị vũ trang nhân dân thì lãnh đạo, chỉ huy đơn vị dự kiến người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội, tổ chức lấy ý kiến nhận xét của Hội nghị cử tri nơi người đó công tác.

Trên cơ sở ý kiến của Hội nghị cử tri, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tổ chức hội nghị gồm lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, đại diện Ban Chấp hành công đoàn (nếu có), đại diện quân nhân và chỉ huy cấp dưới trực tiếp để thảo luận, giới thiệu người của đơn vị mình ứng cử đại biểu Quốc hội.

Muốn có được danh sách ứng cử viên chính thức cho các đơn vị bầu cử niêm yết để cử tri bỏ phiếu bầu cử, mặt trận tổ quốc Việt Nam phải tổ chức ba hội nghị hiệp thương cơ bản giữa các tổ chức là thành viên: Hội nghị hiệp thương để phân bổ số lượng ứng cử viên mà các tổ chức xã hội đươc giới thiệu, hội nghị hiệp thương sơ bộ các ứng cử viên để đưa về đơn vị nơi công tác và nơi cư trú lấy ý kiến đóng góp của Hội nghị cử tri, và cuối cùng là hiệp thương để lập danh sách ứng cử viên để đưa về các đơn vị bầu cử.

Các bước hiệp thương:

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định rõ quy trình hiệp thương giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội gồm 3 bước như sau:

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ nhất chậm nhất là 85 ngày trước ngày bầu cử, để thoả thuận về cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu làm đại biểu Quốc hội, trên cơ sở dự kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai chậm nhất là 60 ngày trước ngày bầu cử để thoả thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú (đối với người tự ứng cử đại biểu Quốc hội thì đồng thời gửi lấy ý kiến cử tri nơi người đó công tác hoặc làm việc (nếu có)), trên cơ sở điều chỉnh lần thứ nhất của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ ba chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử để lựa chọn, lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, trên cơ sở điều chỉnh lần thứ hai của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và kết quả lấy ý kiến cử tri.

Thành phần hội nghị hiệp thương:

Hội nghị hiệp thương ở trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức, thành phần gồm: Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận. Đại diện Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời tham dự Hội nghị này.

Hội nghị hiệp thương ở địa phương do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức, thành phần gồm: Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh, đại diện ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận và đại diện Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đại diện Uỷ ban bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cùng cấp được mời tham dự Hội nghị này.

Lập danh sách đại biểu và niêm yết danh sách:

Sau khi hiệp thương lần thứ ba và lập danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội lần thứ ba, Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gửi đến Hội đồng bầu cử, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gửi đến Uỷ ban bầu cử danh sách chính thức những người được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội. Thời hạn chậm nhất để thực hiện là 30 ngày trước ngày bầu cử.

Sau khi nhận được danh sách danh sách chính thức do Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Uỷ ban bầu cử gửi đến, Hội đồng bầu cử lập và công bố danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử và Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử Ban bầu cử phải niêm yết danh sách người ứng cử ở địa phương mình theo quyết định của Hội đồng bầu cử.

Việc hiệp thương có ý nghĩa quan trọng về mặt kỹ thuật, quy trình này giúp loại khỏi danh sách nhiều ứng cử viên không đủ tiêu chuẩn, hoặc bị phát hiện có dấu hiệu vi phạm... để chốt danh sách ứng cử viên cuối cùng, giảm bớt hiện tượng “loãng phiếu” khi bầu cử.

Ví dụ: Ở kỳ bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 – 2009, sau Hội nghị hiệp thương lần 3, có 27 ứng cử viên Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, 134 cấp huyện, 1.712 cấp xã bị đưa ra khỏi danh sách bầu cử.

Giai đoạn này là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, bởi chính giai đọan này phần nhiều quyết định sự thành bại của ứng cử viên.

Kể từ khi lập danh sách cho đến ngày bỏ phiếu, các ứng cử viên cũng như các chủ thể giới thiệu ứng cử viên được quyền bình đẵng trong việc vận động, tuyên truyền bầu cử.

Vận động bầu cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc của người ứng cử với cử tri và các phương tiện thông tin đại chúng. Mục đích là tạo điều kiện cho người ứng cử đại biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để báo cáo với cử tri dự kiến chương trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu...

Ở Việt Nam, việc tổ chức vận động bầu cử phải tuân theo các quy tắc sau:

Nguyên tắc vận động bầu cử:

Nguyên tắc

0