04/06/2017, 23:58

Bàn về thơ, nhà phê bình văn học Nga Bi-ê-lin-xki cho rằng: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên

Hơn hai nghìn năm trước, Trang Tử đã có một triết lí rất hay về biển cả: “Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều ra đi từ đó, nhưng nó không vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng nó không đầy”. Văn học cũng như những nguồn nước đều đi ra từ biển cả cuộc ...

Hơn hai nghìn năm trước, Trang Tử đã có một triết lí rất hay về biển cả: “Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều ra đi từ đó, nhưng nó không vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng nó không đầy”. Văn học cũng như những nguồn nước đều đi ra từ biển cả cuộc đời. Và hàng ngày, tiếng sóng thuỷ triều vẫn âm vang chuyên chở sóng biển đời thường đến với những trang thơ.

Những sự chuyên chở ấy có bao giờ ngừng nghỉ? mảnh đất hiện thực có bao giờ vơi khi người nghệ sĩ đến đó chở nắng gió cuộc đời tưới mát cho cây. Thơ ca phải gắn cho mình vào nguồn mạch cuộc sống và nhịp nối giữa thơ với cuộc đời chính là tâm hồn, trí tuệ nhà thơ. Nhà phê bình Nga Bi-ê-lin-xki thế kỷ XIX khi bàn về thơ đã viết: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.
 
Người làm thơ, bình thơ xưa và nay đả bộc lộ rất nhiều quan niệm về thơ. Có người cho thơ là “thần hứng” (Pla-tông), là “ngon lửa thần”, là “cơn điên loạn thần thánh”, “Thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”. Riêng với Bi-ê-lin-xki, nhà phê bình không quan niệm thơ ca phải thuộc về một cõi huyền nhiệm, mông lung, diệu vợi; thơ ca lại càng không phải là “một thứ nghe chơi”, là trò đùa của cảm hứng. Thơ gần gũi mà thân thiết biết bao, thơ gắn với cuộc đời ta đang sống thơ phản ánh cuộc đời theo quy luật văn chương. Cái “trước hết của thơ chính là cuộc dời và để cho cuộc đời trong trang: sách, thơ còn phải dừng lại “sau đó là nghệ thuật”.
 
Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông, bất tận của tân hồn nghệ sĩ. Thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực và rồi tờ đó cánh diều nghệ thuật sẽ nhờ gió đời mà cất cánh bay cao. Sẽ “chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”; sẽ chẳng có thơ khi người làm thơ không tìm được sợi dây giao nối với cuộc đời, không tìm đến những cánh đồng phì nhiêu để từ đấy hạt giống thơ ca được ươm trồng, nảy nở. Lục Du đời Tống - người đã viết hàng trăm câu thơ lúc sắp mất đã tâm sự với con, lời tâm sự của một hồn thơ đi trọn cuộc đời mới hiểu cái lẽ “công phu của thơ là ở ngoài thơ”. Sức nặng của những trang thơ lại chính là cuộc đời đầy nắng gió ngoài kia. Nhà thơ phải đến đó để viết lên từ thứ mực được chưng cất từ chính cuộc sống. Gắn với cuộc sống, đấy là đặc trưng thẩm mĩ của vặn học, của tác phẩm văn chương mà nhịp nối là nhà văn - chủ thể sáng tạo. Cuộc sống với những hiện tượng phong phú, phức tạp vừa là đối tượng hướng tới, vừa là nguồn mạch nuôi dưỡng văn học. Quay lưng lại với cuộc sống, mải mê với chuyện đúc chữ, luyện câu mọi giá trị văn chương chỉ còn là thứ kĩ xảo. Danh sĩ Lê Quý Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi sông kì vĩ thì không làm thơ được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào nuôi lớn thi ca, cuộc đời là nguồn nhựa sống dạt đào không bao giờ cạn, Còn nhớ Xuân Diệu khi xưa đã “cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”. Niềm khát khao giao cảm với đời của thi nhân tưởng như đóng chặt:
 
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”
 
Thế nhưng cuộc sống mới chan hoà hơi thở ấm nóng của cách mạng đã như những đợt sóng đánh tan toà lâu đài nghệ thuật, đưa nhà thơ trở về với nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ cuộc dời đem lại:
 
“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao”.
 
Cuộc sống mênh mông vô tận sẽ là nơi cung cấp chất liệu cho thơ. Cuộc sống với hơi thở ấm nóng sẽ tô điểm cho những câu thơ, cho nghệ thuật: “Hãy nhặt lấy chữ ở đời mà viết nên trang” (Chế Lan Viên)”. Thơ ca khởi nguồn từ cuộc đời nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng dáng con người. Thơ mang trong mình những buồn vui, đau khổ, rạo rực đắm say. Thơ nói riêng và văn chương nói chung sẽ làm nên nhịp cầu nối trái tim trở về với trái tim, đưa linh hồn đi tìm những điệu hồn đồng điệu.
 
Khi Pla-tông cho rằng: “Thơ là thần hứng” thì phải chăng đấy chính là sự thần bí hoá thơ ca? Bởi vì không thể có thi sĩ sống ngoài cuộc đời, sống ngoài những buồn vui đau khổ của hiện thực. Những xao động của nắng gió cuộc đời sẽ khơi nguồn cảm hứng và người thi sĩ chỉ ghi lại tiếng lòng của mình trong phút giây rung động, đắm say. Chế Lan Viên - nhà thơ từng “đóng cửa phòng văn hì hục viết đã tâm sự:
 
“Bài thơ anh anh lầm một nứa mà thôi
Còn một nửa để mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa”
 
Đó phải chăng là chiêm nghiệm, là ngẫm suy cửa một nhà thơ hơn ai hết hiểu cái lẽ:
 
“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết bọc vàng mà đời rơi vãi.
Hãy nhặt chữ của đời mà góp nên trang”
Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái tôi” nhỏ bé của người nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng vỏ bào (Pau-tốp-xki). Nhà thơ phải như chàng trai Sa-mét đi nhặt những “hạt bụi” quý trong cuộc đời mênh mông vô tận để làm nên “một bông vàng” giá trị, bông hồng vàng đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ.
 
Tuy nhiên khi Bi-ê-lin-xki nhận xét: “Thơ, trước hết là cuộc đời” thì liệu cuộc đời ấy có phải là toàn bộ cuộc sống bao la vô tận ngoài kia? Thơ ca “là cuộc đời” nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình cuộc sống. Nhà thơ cũng như con ong chỉ đi hút lấy chất mật tinh tế để làm nên mật ngọt cho đời:
 
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật.
Một mật ngọt thành, đổi vạn chuyến ong bay”
 
Có người suốt nửa đời người làm thơ đã tâm sự “Đừng cậy thời đại oai hùng nếu tâm hồn anh quá bé” (Chế Lan Viên). Không phải cứ miêu tả hiện thực vĩ đại là tác phẩm trở nên kì vĩ. Nguyễn Du trước ta hai thế kỉ từng viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Cố lẽ phải có cái “tâm” của người cầm bút, phải có sự xúc động cửa nhà thơ trước cuộc đời thì thơ ca mới trở thành thơ ca, thơ ca mới không đơn thuần là hành động chép sử. Tâm hồn nhà thơ chính là “cửa ải” để từ đó hiện thực cuộc sống vào đến trang thơ. Bằng trải nghiệm của lòng mình, bằng sự chấp nhận giữa nhà thơ với cuộc đời, chính hương phấn cuộc đời và tấm lòng nhà thơ sẽ giao thoa mới làm nên nghệ thuật. Trên đỉnh núi O-den-dơ kì diệu, nơi có những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ, An-đéc-xen đã nhặt lấy những hạt giống trên luống đất người dân cày mà dệt lên những bài ca bất tận. Những phù sa của một dòng sông Mi-xi-xi-pi miền Tây nước Mĩ đã bồi đắp, bồi đắp mãi cho trang văn Mác-tuên. Để rồi đến bây giờ hơi ấm và chất mặn nồng của con người miền Tây vẫn ám ảnh ta, gợi cho ta nhớ về những chuyên phiêu lưu, những cuộc đời ưa mạo hiểm, Cả An-đéc-xen, cả Mác-tuên đều tìm đến với cuộc đời, một cuộc đời mà mình từng gắn bó, yêu thương. Và có lẽ chính sự gắn bó sâu nặng ấy đã đem đến thành công trong trang văn, trang nghệ thuật. Thơ ca phải gắn liền với cảm xúc của người làm thơ. Thi sĩ không chỉ viết bằng “những điều trông thấy” mà phải bằng chính “nỗi đau đớn lòng”. Cuộc sống trong xã hội phong kiến xưa đã được Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều bằng sự đồng cảm chân thành.
 
Khi Bi-ê-lin-xki nói: “Thơ trước hết là cuộc đời” thì ẩn đằng sau đấy, điều mà ông không nói thành lời chính là yêu cầu: cuộc đời mang theo dấu ấn cuộc đời phải được ghi lại bằng trải nghiệm, bằng xúc động của nhà thơ.
Cuộc sống Kinh Bắc, miền quê yên bình với những con người chăm chỉ, hiền hòa đã bao ngày ngủ yêu trong tâm can Hoàng Cầm; để rồi chỉ đến khi nghe tin làng quê bị chiếm giữ xúc cảm trào dâng và một Bên kia sông Đuống mới thành hình.
 
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì”
 
Cấu trúc thơ hay cấu trúc cảm xúc “bên kia”, “bên này”, quá khứ hay hiện tại cứ đan xen và nhập nhoè trong tiềm thức nhà thơ. Và một bờ sông của ngày xưa lung linh sắc trắng cứ dần hiện hữu.
 
Chế Lan Viên viết Tiếng hát con tàu khi chưa lên Tây Bắc nhưng chính tình yêu với mảnh đất, con người, chính tiếng lòng thiết tha, rạo rực khiến bài thơ mãi còn nguyên giá trị. Người ta vẫn thấy một ân tình Tây Bắc với những con người Tây Bắc là anh du kích, là em liên lạc, là mế “lửa hồng soi tóc bọc” nhắc nhở ta trong cuộc sống lao động và chiến dấu hôm nay.
 
“Thơ trước hết là cuộc đời”, Bi-ê-lin-xki đã nói đến gốc rễ, cội nguồn của thơ. Mỗi bài thơ một cậy non phải bám rễ vào cuộc đời  và nhà thơ bằng xúc cảm, bằng rung động, bằng sự gắn bó với cuộc đời sẽ tiếp thêm nguồn sinh lực cho thơ, nuôi lớn những vần thơ.
 
Nhận định của Bi-ê-lin-xki nhấn mạnh yếu tố “trước hết” của thơ ca chính là cuộc đời. Nhưng bên cạnh cội nguồn sáng tạo là cuộc đời, thơ còn phải tuân theo những quy luật riêng của nó. Xuân Diệu từng biết “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. “Thơ còn là thơ nữa” phải chăng chính là nghệ thuật làm thơ. Phiếm nghệ thuật, thơ chỉ là những hạt ngọc chưa được mài giữa. Thơ ca cũng như những nghệ thuật sẽ làm gió nâng cánh diều mãi mãi bay cao.
 
Người đọc xưa và nay đã từng để lòng mình nương gửi theo những khúc hát ca dao:
 
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”.
 
Người đọc chỉ nương theo hiện thực một cảnh tát nước để lơ lửng cùng với muôn sắc màu lấp lánh của hình ảnh, cùng với chất hữu tình của một cuộc tát nước đêm trăng.
“Sau đó mới là nghệ thuật”: nghệ thuật sẽ làm cho cuộc đời đẹp hơn và thơ chỉ đến với người đọc khi bên trong nó không chỉ có cái đẹp nội dung mà cần cả cái đẹp hình thức. Có không ít nhà thơ trong sáng tạo đã bỏ biết bao sức lực để lựa chọn ngôn ngữ, để lựa chọn bộ cánh cho thơ. Gia Đảo vì bán khoăn hai chữ “thôi”, “xao” mà chút nữa mất mạng. Còn Mai-a-cốp-xki từng nhận xét:
 
“Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm Radium
Lấy một gam phải mất hàng ngàn năm
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ”.
 
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở thành nên bất tử, lao động nghệ thuật là hình thức lao động cửa trí óc, con tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá sáng tạo độc đáo, ta mới có thơ ca chân chính. Người đọc Truyện Kiều không yêu vì nó phản ánh một Đoạn trường tân thanh xé ruột cắt lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc. Người ta yêu Truyện Kiều còn bởi là những ngôn từ gấm hoa giàu sắc biểu cảm, vì giọng điệu mượt mà, vì tài nghệ nhà thơ trong những câu thơ vào loại tuyệt bút:
 
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”.
 
Nếu chỉ cố gắng tìm hiện thực cuộc đời, tâm hồn dân tộc phản ánh trong những câu văn, Nguyễn Tuân không phải không có lúc làm người đọc phải thất vọng. Sở dĩ những trang văn Nguyễn Tuân mãi còn bất tử bởi vì ngòi bút tài hoa, uyên bác bởi tấm lòng nặng nợ với dân tộc đã thăng hoa trong những ngôn từ câu chữ. “Sau đó mới là nghệ thuật”, nghệ thuật thơ trước hết nằm ở hình hài câu chữ, nằm ở ngôn từ sống động hay hình ảnh trong thơ.
 
Khác với ngành khoa học luôn loại trừ cái cá biệt để tìm đến quy luật, bản chất của đối tượng; nghệ thuật là lĩnh vực của cái riêng, cái độc đáo... Để thơ trở thành thơ, để nghệ thuật trở thành nghệ thuật người làm thơ phải luôn ý thức: sáng tạo ra cái độc đáo. Không ai đòi hỏi một khuôn mẫu cho nghệ thuật, cũng không ai dạy nhà thơ phải phản ánh thế này, xúc động thế kia. Đấy là công việc của người làm thơ. “Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể”. Bởi vì mỗi tâm hồn là một “vương quốc riêng” mỗi bài thơ là một đứa con tinh thần riêng của người nghệ sĩ nên thật khó tìm thấy sự trùng lặp trong sáng tạo, Khi nhà văn ý thức được sự thiêng liêng trong hai từ “nghệ sĩ”, người làm thơ cũng phải ý thức được công việc của nhà thơ là phải đi tìm cho mình một cá tính sáng tạo. Bởi vì “tầm thường là cái chết của nghệ thuật”, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ ca. Độc đáo luôn là yêu cầu muôn đời của văn chương, nghệ thuật. Thơ ca viết về mùa thu xưa và nay có rất nhiều. Một “ rừng phong hạt móc sa” của Đỗ Phủ, một “giếng ngọc sen tàn bông hết thắm” của Lê Thánh Tông, một mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến, Tản Đà..., có cảm tưởng như biết bao vẻ đẹp về mùa thu đều được nói cả rồi. Vậy mà đến Xuân Diệu, nhà thơ vẫn tìm cho mình một cách nói riêng:
 
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống, lệ ngàn hàng
Đây- mùa thu tới! Mùa thu tới!
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
 
Xuân Diệu không tả mùa thu mà ghi lại cảm nhận, ghi lại khoảnh khắc giao mùa kì diệu với bước đi của thời gian, trong bước chuyển đổi không gian huyền hồ, tinh tế: Đây - mùa - thu - tới. Hiện thực mùa thu khi đi qua tâm hồn Xuân Diệu đã in đậm đấu ấn của một tiếng lòng nồng nhiệt, khao khát: “Xuân và Thu đều là hai bình minh ấm của lòng tôi? Và rồi từ điểm nhìn ấy, con chim hoạ mi Xuân Diệu đậu trong bóng tối để: “hót ra bằng tiếng hót ngọt ngào”.
 
Thơ phản ánh một cuộc đời, số phận nhưng cuộc đời ấy đã đi qua một tâm hồn một trí tuệ người làm thơ. Vì vậy mà “càng cá thể càng độc đáo càng hay”. Lại nghĩ về Hoàng Cầm trong những vần thơ Bên kia sông Đuống. Vẫn là một cảm hứng về quê hương đất nước tưởng đã quên trong thơ Nguyễn Đình Thi, Vũ Dao, Giang Nam..., thế mà người thơ vẫn tìm thấy cảm hứng riêng, cách thể hiện riêng độc đáo. Phải chăng hiện thực về miền quê đau thương trong kháng chiến đã đi qua tâm hồn người con xa xứ. Và chính nỗi đau ám ảnh nhà thơ, chính tiếng lòng khắc khoải: khấn lạy me, con trở về Kinh Bắc” đưa về cuộc tuần du của Hoàng cầm đẩy chiếc xe thơ trở về Bên Kia sông Đuống.
 
“Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”.
 
Bằng ẩn ức riêng, hiện thực nơi thơ Hoàng Cầm đã cơ hồ dấy lên những miền lưu viễn tâm linh. Lại nhớ đến nước Nga khi mới đến làng Văn, Tsê-khôp đã tự coi mình là môn đệ trung thành của chủ nghĩa hiện thực Lép Tôn-xtôi. Để rồi sau đấy nhà văn tâm sự: “Tôn-xtôi đã đi khỏi không còn ngự trị trong tâm hồn tôi nữa. Trước khi đi ông nói với tôi rằng: từ nay tôi để lại ngôi nhà của anh trống rỗng, tôi đã thoát được khỏi sự ở trọ này, Nhà văn đi tìm mình, đi tìm một cách thể hiện mới: chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Và rồi chỉ đến khi đó, những tác phẩm cửa Tsê-khốp mới còn sống mãi trong lòng người đọc.
 
Khi Bi-ê-lin-xki nói: “Sau đó mới là nghệ thuật” thì có lẽ nhà phê bình muốn khẳng định, dù phản ánh cuộc sống thế nào thơ ca vẫn phải tuân theo quy luật của nó. Thơ vẫn là sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, vừa là sự độc đáo của cá tính sáng tạo riêng của người nghệ sĩ.
 
“Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Bi-ê-lin-xki đã hoàn toàn đúng khi định nghĩa về thơ. Có thể đây chưa phải là định nghĩa cuối cùng và duy nhất đúng cho thơ ca nhưng mãi mãi ý kiến đó vẫn còn nguyên giá trị. Nhà thơ hãy đến với cuộc đời rộng lớn ngoài kia để bằng xúc cảm nhặt lấy những tinh chất cuộc đời. Và những tinh chất quý, bằng tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ sẽ làm cho cuộc đời ấy đi vào trong thơ trở nên bất tử, cho tác phẩm thơ và tên tuổi người nghệ sĩ còn sống mãi với thời gian.
 
Tôi còn nhớ trong Lẵng quả thông của Pau-tốp-xki - nhà soạn nhạc Gri-gô đã sáng tác một bản nhạc tặng cho Đa-nhi khi cô tròn 18 tuổi. Bản nhạc ấy khiến cô nghe thấy tiếng động của biển quê, tiếng tù và lưng núi, tiếng rừng thông vi vu gió thổi... Tất cả đã làm cháy lên trong cô khát khao hạnh phúc: “Hỡi cuộc sống Ta yêu người”, nó giúp chú Nin-xơ hiểu rằng “cuộc đời cháu ông sẽ không trôi qua vô ích”.
 
Có lẽ tác phẩm nghệ thuật chân chính là như vậy chăng? Nó tưới mát tâm hồn ta, nó giúp ta thấy được cuộc đời ta đang sống. Bằng giai điệu dịu dàng, êm nhẹ, nó sẽ còn vang đọng mãi trong ta những bài ca, những bản tình ca êm ái. Và nên chăng mọi sáng tác thơ ca hãy nên như một bản nhạc của E-đu-a-giơ với sức hấp dẫn “trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Đúng như ý kiến của nhà phê bình Bi-ê-lin-xki: “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.

0