14/01/2018, 09:51

90 câu hỏi đáp tình huống pháp luật dành cho học sinh THCS

90 câu hỏi đáp tình huống pháp luật dành cho học sinh THCS Tài liệu tìm hiểu pháp luật 90 câu hỏi đáp tình huống pháp luật gồm 5 chủ đề: Quyền trẻ em, quyền và nghĩa vụ công dân trong gia đình; Quyền ...

90 câu hỏi đáp tình huống pháp luật dành cho học sinh THCS

90 câu hỏi đáp tình huống pháp luật

gồm 5 chủ đề: Quyền trẻ em, quyền và nghĩa vụ công dân trong gia đình; Quyền và nghĩa vụ công dân về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên;Quyền và nghĩa vụ công dân về văn hoá, giáo dục và kinh tế; Các quyền tự do cơ bản của công dân; Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Quyền và nghĩa vụ công dân trong quản lý nhà nước.

100% các trường phải có giáo viên dạy môn pháp luật

700 câu hỏi ôn tập thi trắc nghiệm môn Pháp luật đại cương

Chủ đề 1. Quyền trẻ em, quyền và nghĩa vụ công dân trong gia đình (20 câu)

Gồm các nội dung: Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em; Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em (Việt Nam); Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân và gia đình.

Chủ đề 2. Quyền và nghĩa vụ công dân về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên (15 câu)

Gồm các nội dung: Thực hiện trật tự an toàn giao thông; Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; Phòng, chống tệ nạn xã hội; Phòng, chống nhiễm HIV/AIDS; Phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất độc hại.

Chủ đề 3. Quyền và nghĩa vụ công dân về văn hoá, giáo dục và kinh tế (15 câu)

Gồm các nội dung: Quyền và nghĩa vụ học tập; Bảo vệ di sản văn hoá; Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác; Nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản của nhà nước và lợi ích công cộng; Quyền tự do kinh doanh và nghĩa vụ đóng thuế; Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân.

Chủ đề 4. Các quyền tự do cơ bản của công dân (20 câu)

Gồmcác nội dung: Quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; Quyền được bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín; Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân; Quyền tự do ngôn luận.

Chủ đề 5. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Quyền và nghĩa vụ công dân trong quản lý nhà nước (20 câu)

Gồm các nội dung: Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bộ máy nhà nước cấp cơ sở; Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý; Quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của công dân; Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.

CHỦ ĐỀ 1 (20 câu)

QUYỀN TRẺ EM; QUYỀN, NGHĨA VỤ CÔNG DÂN TRONG GIA ĐÌNH

Các nội dung chính trong chủ đề: Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, Quyền được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em (Việt Nam) ; Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân và gia đình.

1. Có ý kiến cho rằng: chỉ có những trẻ em da trắng và da vàng mới có những quyền trẻ em được quy định trong công ước quốc tế về quyền trẻ em, còn trẻ em da đen ở những nước châu Phi thì không có những quyền này. Xin hỏi nhận định như thế có đúng không?

Trả lời:

Công ước Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em là một công ước quốc tế quy định các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Công ước có hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều đã tham gia công ước (193 quốc gia, trừ Hoa Kỳ và Somalia). Các quốc gia phê chuẩn công ước này chịu ràng buộc của các quy định công ước này theo luật quốc tế. Điều 2 của công ước khẳng định rằng các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm những quyền trẻ em được nêu ra trong công ước mà không có sự phân biệt, đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc….

Như vậy, trẻ em ở bất cứ quốc gia nào đã tham gia công ước đều được hưởng những quyền trẻ em được ghi nhận trong công ước, không phụ thuộc vào màu da của các em. Trẻ em da đen cũng như trẻ em da trắng, đều có các quyền bình đẳng như nhau.

Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới tham gia Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Ngay sau đó, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào năm 1991 để ghi nhận các quyền trẻ em trong công ước này.

2. Chú Khang là hàng xóm nhà Tuyết. Bé Bi, con trai của chú Khang vừa mới tròn 2 tuổi. Tuyết thường hay sang chơi với bé Bi. Có một lần Tuyết nghe thấy bố mình hỏi chú Khang: “Em đã đăng ký khai sinh cho cháu Bi chưa?” Chú Khang cười rồi trả lời: “ Em chưa anh ạ. Đợi đến lúc bé Bi đi học tiểu học thì đăng ký cũng được. Vội gì!”

Hỏi: Trẻ em có quyền được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời không? Pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em như thế nào?

Trả lời:

Được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời là một quyền cơ bản của trẻ em.

Khoản 1, Điều 7 Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em ghi nhận rằng: "Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời…"

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam đã khẳng định rằng: Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn; UBND cấp xã có trách nhiệm thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em, vận động cha mẹ, người giám hộ khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn. Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí đăng ký khai sinh.

Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng quy định rõ : “Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em”.

Bé Bi đã tròn 2 tuổi mà chú Khang chưa đi đăng ký khai sinh cho bé là không đúng. Việc này có thể làm ảnh hưởng đến các quyền lợi khác trong tương lai của bé Bi.

3. Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục năm 2004 (Điều 24) quy định như sau:

- Cha mẹ, người giám hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em; khi gặp khó khăn tự mình không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em.

- Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình phải gương mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triên toàn diện của trẻ em.

- Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm chăm lo chế độ dinh dưỡng phù hợp với sự phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ em theo từng lứa tuổi.

- Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con chưa thành niên phải có nghĩa vụ đóng góp để nuôi dưỡng con đến tuổi thành niên, có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con theo quy định của pháp luật.

4. "Sáng ngày 25/5, trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi của quận H thấy một cháu bé khoảng 3 tuần tuổi bị bỏ rơi trước cửa trung tâm. Khắp người cháu bé bị bầm tím và sưng tấy do bị kiến cắn. Manh mối duy nhất để lại là một mảnh giấy ghi tên và ngày sinh của cháu. Công an đã nhanh chóng điều tra và tìm ra bố mẹ của cháu. Được biết, vì khi sinh ra, cháu đã bị teo não, bố mẹ không muốn nuôi nên đành bỏ cháu vào trung tâm".

Đọc xong tin trên, Minh (13 tuổi) thắc mắc, muốn biết những quyền trẻ em nào đã bị vi phạm và hành vi bỏ rơi trẻ em như trên có bị pháp luật trừng trị không?

Trả lời:

Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, hành vi bố mẹ bỏ mặc trẻ em vì lý do trẻ em bị bệnh nói trên đã vi phạm đến nhiều quyền cơ bản của trẻ em bao gồm:

- Quyền được sống chung với cha mẹ: Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với mình.

- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Cha mẹ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em.

- Quyền được chăm sóc sức khoẻ: Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Cha mẹ có trách nhiệm thực hiện việc chữa bệnh cho trẻ em.

Theo Điều 9, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 17 tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì cha mẹ, người giám hộ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

- Sau khi sinh con, cha hoặc mẹ bỏ con, không chăm sóc, nuôi dưỡng;

- Cha, mẹ bỏ mặc con, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ em ở nơi công cộng hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, để trẻ em này rơi vào hoàn cảnh đặc biệt theo quy định tại Điều 40 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;

- Cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp cho trẻ em làm con nuôi hoặc bị buộc phải cách ly trẻ em theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, để khắc phục hậu quả, pháp luật buộc cha, mẹ, người giám hộ thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em theo quy định của pháp luật do thực hiện hành vi nói trên.

5. Khi Mai học hết tiểu học thì bố quyết định cho Mai nghỉ học để phụ giúp mẹ bán hàng. Khi các cô bác ở hội phụ nữ phường đến động viên cho Mai được đi học thì bố Mai cho rằng: bố mẹ có quyền quyết định việc học của con cái.

Xin hỏi; Bố mẹ có quyền quyết định việc học của con cái hay không? Trách nhiệm bảo đảm quyền học tập của trẻ em được pháp luật Việt Nam quy định như thế nào?

Trả lời:

Đối với trẻ em, học tập có ý nghĩa quan trọng. Trẻ em cần được học tập để trở thành con ngoan, trò giỏi, người hữu ích cho gia đình, xã hội và tương lai sẽ trở thành công dân tốt, người lao động tốt góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, Điều 16, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã khẳng định rằng: "Trẻ em có quyền được học tập."

Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em. Trách nhiệm này được Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định tại Điều 28 như sau:

- Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em được thực hiện quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn.

- Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

- Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để đảm bảo chất lượng giáo dục.

- Người phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, yêu trẻ, được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ.

Như vậy, theo các quy định của pháp luật, cha mẹ không có quyền bắt con cái bỏ học mà phải tạo điều kiện để con cái thực hiện quyền được học tập của mình. Suy nghĩ và hành động của bố Mai như thế là không đúng. Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em.

6. Ngày 23 tháng 10, trước cửa bệnh viện X, có một bé gái 5 tuổi nhăn nhó vì đau ruột thừa. Em đã ngồi đây từ sáng nhưng vẫn chưa được vào khám vì em không mang theo thẻ bảo hiểm y tế và mẹ em thì không có tiền để đóng phí khám bệnh. Thật may mắn là sau khi được thông báo, Giám đốc bệnh viện đã ra giải quyết vụ việc và tạo điều kiện cho em được khám bệnh. Em gái được phẫu thuật và cứu sống ngay sau đó. Những nhân viên bệnh viện cản trở việc khám bệnh của em cũng đã bị xử phạt theo pháp luật.”

Cường rất bức xúc khi đọc được tin tức trên và biết rằng hành vi đó đã vi phạm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Em muốn biết hành vi cản trở, không khám chữa bệnh cho trẻ em sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản của trẻ em được ghi nhận trong Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 cũng khẳng định : trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe; trẻ em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.

Theo quy định tại Điều 8, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 17 tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì hành vi cản trở, không khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em bị xử lý như sau:

- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người đang chăm sóc, nuôi dưỡng, trông nom, dạy học cho trẻ em phát hiện ra trẻ em bị bệnh hoặc có dấu hiệu bị bệnh mà không thông báo kịp thời cho gia đình hoặc không đưa ngay trẻ em đến khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế gần nhất dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ em.

- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

+ Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em theo quy định hoặc trong trường hợp cấp cứu;

+ Thu tiền khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi trái với quy định của pháp luật;

+ Không sử dụng trang thiết bị, phương tiện khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em trong khi có điều kiện và được phép sử dụng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ em.

- Tổ chức, cá nhân có các hành vi cản trở không khám chữa bệnh cho trẻ em sẽ bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ ba tháng đến sáu tháng đối với cá nhân, tổ chức.

- Tổ chức, cá nhân có những hành vi nói trên sẽ phải chịu mọi chi phí khám, chữa bệnh cho trẻ em.

- Tổ chức, cá nhân đã thu tiền khám, chữa bênh cho trẻ em dưới sáu tuổi trái với quy định của pháp luật thì phải trả lại số tiền đã thu.

(Xem tiếp trong file tải về)

+1