17 Tác dụng chữa bệnh của Cây Ngưu Tất ghi trong sách cổ
Nội Dung Chính Gồm: 17 Tác dụng chữa bệnh của Cây Ngưu Tất ghi trong sách cổ Cây ngưu tất là loại cây có tác dụng tốt trong việc phá huyết, hành ứ, mạnh gân cốt, bổ can thận, lợi tiểu, chữa các chứng bệnh viêm khớp, kinh nguyệt khó khăn, đau bụng, còn giúp hạ cholesterol trong ...
Nội Dung Chính Gồm:
17 Tác dụng chữa bệnh của Cây Ngưu Tất ghi trong sách cổ
Cây ngưu tất là loại cây có tác dụng tốt trong việc phá huyết, hành ứ, mạnh gân cốt, bổ can thận, lợi tiểu, chữa các chứng bệnh viêm khớp, kinh nguyệt khó khăn, đau bụng, còn giúp hạ cholesterol trong máu và hạ huyết áp,…. Trong đông y, cây ngưu tất được sử dụng làm vị thuốc truyền thống, đóng vai trò quan trọng trong nhiều bài thuốc dân gian. Trong nội dung này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về đặc điểm và công dụng của nó thông qua tài liệu được trích từ cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi.
Cây cỏ xướcCây ngưu tất là cây như thế nào
Còn được gọi với các tên khác như hoài ngưu tất, cây cỏ xước,… với tên khoa học là Achyramthes bidentata Blume. Thuộc họ nhà Giền Amaranthaceae.
Người ta thường dùng rễ để phơi hoặc sấy khô làm thuốc. Trong sách cổ có nhắc vị thuốc này giống đầu gối của con trâu. Nên có tên gọi là ngưu tất (trong đó ngưu là trâu, tất là cái đầu gối).
Mô tả cây ngưu tất
Là một trong các loại cỏ xước. Nên nhiều người hay nhầm với cây cỏ xước Achyranthes aspera L. Về đặc điểm ngưu tất có thân mảnh, hơi vuông chút, chiều cao trung bình 1m, có cây cao tới 2m. Lá dài từ 5-12cm, rộng từ 2-4cm, mọc đối có cuống, đầu lá nhọn, mép nguyên, phiến lá hình trứng. Cụm hoa thì mọc thành bông ở kẽ lá hoặc đầu cành.
Về phân bố, thu hái và chế biến cây ngưu tất
Cây ngưu tấtỞ nước ta người ta bắt đầu trồng giống ngưu tất di thực của Trung Quốc, nó có rễ to hơn loại cỏ xước mọc hoang ở nhiều nơi trên nước ta. Nhưng có thể dùng rễ cỏ xước rửa sạch, sấy hoặc phơi khô ở nước ta làm ngưu tất được.
Về thành phần hóa học của cây ngưu tất
Người ta chiết xuất từ rễ ngưu tất được một chất saponin. Mang thủy phân thì cho ra axit oleanic C30H48O3 và glucoza, rhamnoza, glactoza. Ngoài ra còn có thêm muối kali, inokosteron và ecdysteron.
Về tác dụng dược lý của cây ngưu tất
Theo Trung Hoa y học tạp chế năm 1935, Trương Phát Sơ, Lưu Thiệu Quang và Trương Diệu Đức đã sử dụng cao lỏng của cây ngưu tất. Thực hiện 90 thí nghiệm trên tử cung cô lập của chuột bạch, thỏ, mèo và chó (có chửa hoặc không) thu được kết quả sau đây:
1. Cao lỏng ngưu tất có công dụng làm dịu sức căng của tử cung con chuột bạch (có chửa hay không đều vậy).
2. Đều phát sinh tác dụng co bóp tử cung con thỏ dù có chửa hay không có.
Cây ngưu tất trong tài liệu cổ3. Cao lỏng ngưu tất có công dụng làm dịu tử cung của con mèo khi không có chữa, đối với mèo có chửa thì có tác dụng co bóp mạnh hơn.
4. Đối với tử cung chó lúc thì gây co bóp, lúc thì làm dịu, tác dụng không ổn định, hoặc lúc đầu thì co bóp, sau đó thì dịu (dù có chửa hay không).
5. Cao lỏng ngưu tất có tác dụng trên được phỏng đoán là do tác dụng trực tiếp kích thích vào dây thần kinh ở dưới bụng.
Năm 1937 tại Viện nghiên cứu quốc lập Bắc Kinh, Sở nghiên cứu sinh lý học, theo Kinh Lợi Bân thì ngưu tất có các tác dụng sau:
1. Đối với động vật đã bị gây mê, có thể gây giảm áp huyết tạm thời, trở lại bình thường sau vài phút nhưng sau đó lại hơi tăng.
2. Tác dụng làm yếu sức co bóp của tim con ếch.
3. Tác dụng ức chế sức co bóp của khúc tá tràng.
4. Hơi các tác dụng lợi tiểu.
5. Ở liều cao, có khả năng kích thích sự vận động của tử cung.
Một số nghiên cứu cho thấy, chất saponin có công dụng phát huyết, làm vón anbumin; Ecdysteron và inokosteton kìm hãm sự phát triển một số loại sâu bọ; ngưu tất còn giúp hạ huyết áp, giảm cholesterol trong máu.
Về công dụng và liều dùng
Ngưu tất trong tài liệu cổTính vị theo đông y: Vị đắng, chua, bình, không độc, đi vào 2 kinh can và thận. Công dụng hành ứ (sống), phá huyết, mạnh gân cốt (làm chính), bổ can thận.
Trong dân gian, người ta sử dụng ngưu tất để chữa các bệnh đau bụng, kinh nguyệt khó khăn, viêm khớp. Mỗi ngày dùng từ 3-9g thuốc sắc. Lưu ý người có thai không được dùng.
Để chữa bệnh cao huyết áp, cholesterol máu cao, xơ vữa động mạch. Ta viên ngưu tất (dạng cao khô mỗi viên 0,25g) hoặc thuốc ống (mỗi ống 4g ngưu tất khô), uống mỗi ngày 2 lần sau bữa ăn, mỗi lần uống 5 viên hoặc 1 ống. Liên tục từ 1-2 tháng thì nghỉ.
Một số bài thuốc sưu tầm từ cây ngưu tất
1. Chống bại liệt, co giật, xơ vữa mạch máu, phong thấp, teo cơ, đột quỵ
Dùng 40-60g ngưu tất sắc uống nhiều lần trong ngày.
2. Người bị ngã máu ứ bên trong, bị thương máu tụ bên ngoài hoặc chân tay nhức mỏi do đi xa về
Dùng 100g ngưu tất, 50g huyết giác và 30g sâm đại hành ngâm rượu từ 30-40 ngày. Mỗi lần uống 10-15ml, mỗi ngày uống 2 lần, uống từ 10 ngày trở lên.
3. Chữa nhức đầu, đau mắt, chóng mặt, bốc nóng, ù tai, đau mắt, rối loạn tiền đình, tăng huyết áp, đau nhức dây thần kinh, khó ngủ, co giật, rút gân, táo bón, giảm béo phì
Dùng 30g ngưu tất và 20g hạt muồng sao mang sắc uống mỗi ngày 1 thang.
4. Giảm cholesterol và triglycerid
Dễ cây ngưu tấtDùng 12g ngưu tất tái lát mỏng, hãm nước nóng hoặc sắc uống thay nước mỗi ngày.
5. Bài thuốc trừ phong thấp, tráng dương, tán hàn, hòa huyết mạch, mạnh gân cốt, chữa mỏi gối, đau lưng, chóng mặt, chân tay yếu, chân tay lạnh, hoa mắt
Đan sâm 15g, đương quy 30g, đỗ trọng 30g, kim anh 15g, hồ cốt 45g, ngưu tất (xuyên) 30g, ngưu tất (hoài) 15g, phụ tử 15g, phòng phong 15g, sơn thù 15g, sinh địa 30g, tiên linh tỳ 30g, thạch hộc 15g, ý dĩ nhân 30g, tỳ giải 30g. Tất cả mang giã nát, rồi cho vào túi vải, để vào bình ngâm với 3 lít rượu.
Mùa đông hoặc thu thì ngâm 9 ngày, mùa xuân hoặc hạ thì chỉ cần ngâm 7 ngày. Uống 2 ly mỗi ngày lúc bụng đói.
6. Điều trị nhồi máu cơ tim, huyết áp cao, xơ vữa động mạch, cholesterol cao
Dùng 5g rễ khô ngưu tất, 10 cây thành ngạch (đỏ ngọn), cho 3 bát nước vào đun tới khi còn 1 bát. Uống sau mỗi bữa ăn 30 phút, uống liên tục 2 tháng, nghỉ 3 ngày rồi tiếp tục uống đợt 2. Mỗi người uống 3 đợt là hiệu quả.
7. Điều trị tắc kinh, bế kinh
Dùng ngưu tất và ích mẫu mỗi loại 10g mà sắc uống trong ngày.
8. Trị sốt, sổ mũi
Dùng cỏ xước và đơn buốt mỗi loại 30g sắc thuốc, chia làm 2-3 lần uống trong ngày.
9. Chữa quai bị
Giã nhuyễn cỏ xước, chế nước xúc miệng và uống trong. Đồng thời lấy bã lượng vừa đủ đắp vào vùng quai bị sưng đau.
10. Chữa viêm thận, viêm gan, viêm bàng quang, đái đỏ, đái ra sỏi, đái vàng thẫm
Dùng 15g ngưu tất, 15g mộc thông, 15g cỏ tháp bút, 15g sinh địa, 15g mã đề (hoặc hạt lá bông) và 15g rễ cỏ tranh sắc nước thuốc, cho thêm 15g bột hoạt thạch uống thành 3 lần trong ngày.
11. Điều trị viêm cầu thận, đái đỏ, đái són, phù thũng, đái vàng thẫm, viêm gan virus, đái ra máu, viêm bàng quang, da vàng
Dùng 30g rễ cỏ xước, 15g mã đề, 15g rễ cỏ tranh, 15g huyết dụ, 15g mộc thông, 15g huyền sâm và 15g lá móng tay. Sắc thuốc uống 3 lần trong ngày.
12. Điều trị thấp khớp đang sưng
Hoa câu ngưu tấtDùng 16g ngưu tất, 16g hy thiêm thảo, 16g nhọ nồi, 12g thương nhĩ tử, 20g phục linh và 12g ngải cứu. Sao vàng, sắc lấy 3 lần nước thuốc, trộn chung lại sắc cho đặc, chia làm 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục 7-10 ngày.
Có thể dùng 40g cỏ xước, 20g thổ phục linh, 30g hy thiêm, 12g ngải cứu, 20g cỏ mực, và 12g quả ké đầu ngựa sắc nước thuốc đặc uống trong ngày.
13. Chữa huyết hư, kinh nguyệt không đều
Dùng 20g rễ cỏ xước, 16g ích mẫu, 16g cỏ cú, 30g rễ gai (gai lá làm bánh) và 16g nghệ xanh mang sắc uống thành 1 thang, mỗi ngày 1 thang chia thành 3 lần uống, uống liên tục 10 ngày. Kiêng dùng với người có thai.
14. Chữa viêm đa khớp dạng thấp
Dùng 20g rễ cỏ xước tẩm rượu sao, 16g tang ký sinh, 12g độc hoạt, 12g tục đoạn, 16g dây đau xương, 12g thục địa, 12g đương quy, 12g đảng sâm, 12g bạch thược, 8g quế chi, 12g tần giao, 6g tế tân, 8g xuyên khung và 6g cam thảo. Sắc thành 1 thang uống 3 lần mỗi ngày, uống liên tục 10 ngày.
15. Chữa phù thũng, suy thận, vàng da, nặng chân
Dùng 30g rễ ngưu tất, 30g cả cây cúc bách nhật, 30g mã đề cả cây và 30g cỏ mực sắc thành 1 thang uống 2-3 lần trong ngày. Uống liên tục từ 7-10 ngày.
16. Điều trị mỡ máu cao, nhức đầu chóng mặt, xơ vữa động mạch, huyết áp cao, mờ mắt, ù tai
Dùng 16g cỏ xước, 12 xuyên khung, 12g hạt muồng sao vàng, 12g nấm mèo, 12g hy thiêm, 20g cỏ mực và 16g đương quy. Sắc uống thành 1 thang uống 3 lần trong ngày. Trước khi uống, vớt bã nấm mèo ra ăn, nhai kỹ rồi uống kèm nước thuốc. Cần phải uống liên tục từ 20-30 ngày.
Rễ cây ngưu tất17. Chữa sổ mũi do chứng viêm mũi dị ứng
Dùng 30g rễ cỏ xước, đơn buốt và lá diễn mỗi loại 30g. Cho 400ml sắc tới khi còn ¼, uống khi còn ấm. Uống liên tục trong 10 ngày.
Lưu ý
Cây ngưu tất không dùng cho phụ nữ có thai hoặc ra nhiều kinh nguyệt. Ngưu tất có tính hoạt nên không dùng cho người di tinh hoặc mộng tinh.
Những bài thuốc trên chỉ mang tính chất tham khảo, nên hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng chữa bệnh.