08/03/2018, 10:21

Xu hướng trong công nghệ thông tin

Theo một báo cáo năm 2011 của chính phủ Mĩ: lĩnh vực công nghệ thông tin (khoa học máy tính, kĩ nghệ phần mềm và quản lí hệ thông tin) đã trở thành lĩnh vực học tập phổ biến nhất ở các đại học Mĩ. Đăng tuyển đang tăng lên hơn 28% phần lớn do cơ hội tốt hơn trong thị trường việc làm khan hiếm. ...

Theo một báo cáo năm 2011 của chính phủ Mĩ: lĩnh vực công nghệ thông tin (khoa học máy tính, kĩ nghệ phần mềm và quản lí hệ thông tin) đã trở thành lĩnh vực học tập phổ biến nhất ở các đại học Mĩ. Đăng tuyển đang tăng lên hơn 28% phần lớn do cơ hội tốt hơn trong thị trường việc làm khan hiếm.

Không giống các lĩnh vực khác, người tốt nghiệp trong những lĩnh vực này có thể sẵn có các việc làm được trả lương cao với chỉ mức sinh viên đại học. Sinh viên trung bình có bằng cử nhân có thể kiếm được giữa $87,000 tới $125,000 một năm. Người tốt nghiệp từ các trường hàng đầu (Stanford, MIT, Carnegie Mellon, và Berkeley) thường nhận được ba tới sáu đề nghị việc làm trước khi họ tốt nghiệp. Báo cáo này thấy rằng trong mười năm qua, Quản trị kinh doanh, Ngân hàng và Tài chính đã là ngành được ưa chuộng nhất trong các sinh viên nhưng điều đó đã thay đổi nhanh chóng trong năm 2009 và bây giờ sụt giảm nhanh chóng với ít người đăng tuyển vì có ít việc làm sẵn có hơn.

Tuy nhiên có xu hướng mới trong các trường công nghệ hàng đầu. Nhiều trường đang thiết kế lại chương trình đào tạo của họ để đáp ứng các nhu cầu công nghiệp mới. Chẳng hạn, chương trình máy tính của Stanford bây giờ được móc nối với studio đồ hoạ nghệ thuật và sinh học (hỗ trợ trò chơi và công nghiệp công nghệ sinh học). Chương trình của Carnegie Mellon được tích hợp với kĩ nghệ và sinh học tính toán (hỗ trợ robotics, công nghệ na nô và công nghiệp công nghệ sinh học). Những trường hàng đầu này đang hội tụ vào việc làm cho chương trình kĩ thuật của họ thành “liên ngành-phối hợp” với các lĩnh vực khác để chuẩn bị cho công nghiệp công nghệ mới. Thay vì duy trì thuần tuý trong tính toán truyền thống (phần cứng và phần mềm) những chương trình mới này được thiết kế lại để đáp ứng nhu cầu tương lai khi công nghiệp đang tiến sang biên giới tiếp của công nghệ na nô và công nghệ sinh học.

Không giống các thay đổi khác trong quá khứ, phát triển của những công nghệ mới này đang xảy ra với nhịp độ nhanh hơn nhiều và thường xuyên có nhu cầu về các chương trình đào tạo mới cũng như nhu cầu mới về người tốt nghiệp có kĩ năng mới nhất. Trong vài năm tới, sinh viên sẽ không vào đại học để học chương trình máy tính hay thiết kế hệ thống vì những kĩ năng này bây giờ được dạy ở trường phổ thông. (Phần lớn các trường phổ thông ở Mĩ đã dạy lập trình máy tính cho lớp 10.) Sinh viên đại học sẽ được dạy chủ yếu về cách áp dụng công nghệ để giải quyết các vấn đề trong các khu vực như y tế, dược học, chế tạo, và doanh nghiệp. Họ sẽ học về tương tác của vài lĩnh vực cho xu hướng tiếp trong công nghiệp. Nhiều việc làm tương lai sẽ là trong tích hợp của nhiều khu vực để làm chuyên sâu công nghệ cho mức tiếp.

Chẳng hạn, một trong những chương trình liên ngành là Quản lí hệ thông tin (ISM) nơi sinh viên học cách áp dụng công nghệ thông tin vào giải quyết các vấn đề trong khu vực doanh nghiệp bằng việc tạo khả năng phân tích nhanh dữ liệu doanh nghiệp để tạo ra thông tin có giá trị cho những người quản lí ra quyết định.

Người quản lí doanh nghiệp cần thông tin để nhận diện và giải quyết các vấn đề để cho họ có thể quản lí mọi khía cạnh của vận hành công ti một cách hiệu quả. Trước khi có máy tính, những nhiệm vụ này chủ yếu dựa trên quan sát và chuẩn bị báo cáo thủ công điều tốn nhiều thời gian hơn và đầy lỗi. Ngày nay bằng việc áp dụng hệ thông tin và phần mềm như trinh sát doanh nghiệp (BI) công ti có thể thu thập và phát sinh các báo cáo chi tiết trong vài phút thay vì vài tuần.

Ngày nay hệ thông tin có thể xử lí dữ liệu công ti, thu thập các giao tác doanh nghiệp, phân tích chúng và phát sinh thông tin có nghĩa trong các báo cáo. Trong các công ti toàn cầu, những máy tính này và hệ thống viễn thông bao giờ cũng thu thập và xử lí dữ liệu từ khắp thế giới. Chẳng hạn, dữ liệu được thâu tóm về các giao tác doanh nghiệp xảy ra ở châu Á – lúc đang đêm ở Mĩ. Những dữ liệu này được phân tích và tạo ra báo cáo vào sáng hôm sau cho người quản lí ở Mĩ khi họ tới văn phòng. Trong thế giới cạnh tranh cao, quyết định phải được đưa ra nhanh chóng nếu không cơ hội có thể mất. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong thế giới doanh nghiệp không còn là thứ xa hoa mà là điều cần thiết.

Trong quá khứ, mọi thứ đều được thu thập thủ công. Các giao tác phải được đưa vào, xử lí và báo cáo được chuẩn bị bởi những người trong lĩnh vực đó cho nên thường mất vài tuần mới sinh ra được báo cáo. Nhiều báo cáo đầy lỗi và thỉnh thoảng bị sửa đổi khi chúng được gửi lên trong công ti qua nhiều mức quản lí. Đến lúc chúng tới đỉnh hay người chủ công ti, chúng có thể không còn là thông tin đúng mà họ cần để ra quyết định đúng. Quan liêu này là sự sa sút chính của nhiều công ti lớn vì họ đã không ra quyết định đúng lúc và bỏ lỡ cơ hội.

Các hệ thông tin xử lí dữ liệu như được chỉ đạo bởi các chương trình phần mềm được những người phát triển phần mềm viết ra. Những phần mềm như vậy có thể bảo máy tính phân tích dữ liệu theo nhiều cách và tạo ra các loại báo cáo khác nhau. Những người quản lí chức năng khác nhau có thể có được dữ liệu đã được phân tích theo các cách khác nhau phù hợp với yêu cầu của họ và có được báo cáo đáp ứng cho mục tiêu của họ. Chẳng hạn, người quản lí chế tạo sẽ nhận báo cáo về năng suất, vấn đề và vận hành. Người quản lí bán và tiếp thị sẽ nhận báo cáo về bán hàng, xu hướng thị trường, quảng cáo và dữ liệu của đối thủ cạnh tranh. Người quản lí tài chính sẽ nhận báo cáo về thu nhập, chi phí, lợi nhuận và thuế v.v.

Ngày nay sinh viên quản lí hệ thông tin được đào tạo để hiểu cách công nghệ thông tin có thể được áp dụng vào doanh nghiệp. Họ học xây dựng chiến lược CNTT để hỗ trợ cho các mục đích doanh nghiệp, họ học cách phân tích các yêu cầu doanh nghiệp và thu thập dữ liệu. Họ học cách đặt chúng vào cơ sở dữ liệu và cấu trúc chúng theo những cách mà có thể sinh ra các loại báo cáo khác nhau để đáp ứng các yêu cầu đa dạng. Họ học cách sinh báo cáo trong những dạng thức đã thiết kế sẵn như được người dùng yêu cầu. Họ được dạy về cách nhà kho dữ liệu và khai phá dữ liệu tạo khả năng làm nhiều kiểu đa dạng về phân tích và phát sinh báo cáo để trả lời cho các câu hỏi xác định. Họ học rằng các phương pháp phân tích nào đó cũng có thể được dùng để phát hiện các hình mẫu bất ngờ hay chiều hướng dự báo cho vận hành doanh nghiệp. Họ học về hệ hỗ trợ quyết định như trinh sát doanh nghiệp (BI) và bàn điều khiển điều hành, chỗ làm tóm tắt dữ liệu bên trong và bên ngoài theo dạng thức đồ hoạ dễ hiểu. Họ tổ chức dữ liệu để trình bày bức tranh doanh nghiệp toàn bộ và cho phép người quản lí cao nhất đi sâu hơn và nhìn vào các đặc thù nền tảng để hiểu xu hướng thị trường đang nổi lên.

Bằng việc tích hợp và áp dụng công nghệ thông tin vào doanh nghiệp, công nghệ có thể biến đổi quản lí thông tin thành các hệ thống lập kế hoạch tài nguyên doanh nghiệp (ERP) giúp cho người quản lí ra quyết định nhanh chóng, hiệu quả và hiệu lực.

English version

Full article:

Tác phẩm, tác giả, nguồn

  • Tác phẩm: Công nghệ thông tin
  • Biên tập: Kipkis.com
  • Nguồn: Blog của giáo sư John Vu, Carnegie Mellon University
0