vấn đề dân tộc trong tư tưởng hồ chí minh

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ...

Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản.

Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức bóc lột thực dân, thực hiện quyền tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trong mấy luận điểm cơ bản để giành độc lập và phát triển sau đây:

a) Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập
– Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 có đoạn nói về quyền bình đẳng: “tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
– Từ đó, Người đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
– Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng minh thừa nhận, Người gửi đến hội nghị hòa bình Véc xay bản yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Đây là hình thức thử nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về sử dụng pháp lý tư sản trong đấu tranh bằng phương pháp hòa bình. Bản yêu sách từ nội dung đến lời lẽ đều rất ôn hòa, chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà mới chỉ tập trung hai nội dung cơ bản:
– Một là đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người Đông Dương như đối với người Châu Âu (như xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp những người yêu nước mà Hồ Chí Minh gọi là những người trung thực nhất trong nhân dân; xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh (một cách độc tài).
– Đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân đó là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú.
Mặc dầu vậy, bản yêu sách đã không được chấp nhận. Sự thật ấy đã giúp Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
– Sau khi đã trở thành lãnh tụ có uy tín, tại hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam do Người chủ trì đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng trong chính cương vắn tắt và cả trong lời kêu gọi là:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập.
– Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước chủ trì hội nghị trung ương 8 của Đảng, Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Người chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo 10 chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là “cờ treo độc lập, nền xây hòa bình”. Nội dung cơ bản của chính sách nhằm thực hiện hai điều: một là làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hai là làm cho dân Việt Nam hoàn toàn tự do. Người đã đức kết ý chí đấu tranh cho độc lập tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
– Cách mạng tháng tám thành công, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khẳng định trước thế giới và nhân dân: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm tất cả tinh thần và lực lượng, tình mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong các bức thư và điện văn gởi tới Liên Hợp Quốc và chính phủ các nước vào thời gian đó, Người đã trịnh trọng tuyên bố rằng “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
– Kháng chiến toàn quốc bùng nổi thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu họi vang dậy núi sông: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”.
– Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh lại đưa ra một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Với tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân ta buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, phải chấp nhận điều 1 của chương 1 nói về các quyền dân tộc vàu nhân dân Việt Nam: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”

b) Ở các nước đấu tranh giành độc lập, chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn.

Chủ nghĩa dân tộc ở đây theo Bác đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần dân tộc trong sáng, là truyền thống quý báu từ rất lâu đời của dân tộc ta. Nó hòan tòan khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc sô vanh, dị kỷ, bá quyền…

c) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với  chủ nghĩa quốc tế vô sản.

*Quan điểm cơ bản của Mac-Ănghen, Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp:
Vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh rằng: chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác Ănghen đã đề cập mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Các ông viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu nó mang tính chất dân tộc, vì “Phong trào vô sản là phong trào độc lập của đại đa số”. Vì vậy, “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc”. Từ đó Mác kêu gọi: “giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”.
Theo Mác Ănghen, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt để xóa bỏ ách áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệng lụch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tuy nhiên, ở thời đại Mác Ănghen, các ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì về cơ bản vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng như Lênin đã từng nhận xét, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu thôi.
Bước sang thời đại Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản. Lênin mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận, được coi là học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, Người đã bổ sung khẩu hiệu của Mác thành “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Đúng như Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Lênin đã đặt tiền đề cho một thời đại mới, thặt sự cách mạng trong các nước thuộc địa”.
Tóm lại, Mác Ănghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa các vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách mạng vô sản ở Châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn “đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản”. Điều đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiến cách mạng vô sản ở Tây Âu đang đặt ra lúc bấy giờ.

*Tư tưởng Hồ Chí Minh:

Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác Lênin. Khi viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của giai cấp vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”, tức là Người đã nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác Lênin và quan điểm trên phù hợp với đặc điểm lịch sử xã hội của Việt Nam.
Diễn giảng về vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này bằng việc đưa ra các quan điểm của Mác Lênin:
Khi Mác Ănghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là lúc mà đối kháng giai cấp trong thời đại tư sản ở châu Âu đã đơn giản hóa. “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, 2 giai cấp hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”.
Vào sinh thời của Mác, Ănghen, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng, nhưng các cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh, chưa có ảnh hưởng đến sự tồn tại và suy vong của chủ nghĩa tư bản. Trung tâm cách mạng thế giới vẫn ở châu Âu, vận mệnh của loài người vẫn được coi là phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản công nghiệp phát triển. Do đó, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trái lại, vấn đề đặt ra trước mắt cho các thuộc địa phương Đông không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, có độc lập dân tộc rồi mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đi đến luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.
Qua đó có thể khẳng định ngay từ khi trở thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp đúng đắn dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với cách mạng quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội được thể hiện ở những luận điểm sau đây:
– Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
+ Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Nó khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc Sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án.
+ Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở Phương Tây.
Báo cáo về bản chất, tính chất Nguyễn Ái Quốc gởi Quốc tế Cộng sản:
Bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội Phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”.
Nói về sự phân hóa giai cấp, Người chỉ rõ: “những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên luôn… bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…”nếu như nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ không có vốn lũy gì lớn…, nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc;… sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”. Trái lại giữa họ vẫn có một sự tương đồng lớn: dù họ là địa chủ hay người dân họ đều là người nô lệ mất nước. Chính vì thế mà có cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du…
Từ luận điểm trên, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về cương lĩnh hành động của quốc tế Cộng sản: phát động cách mạng dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng sản… khi cách mạng dân tộc thắng lợi… nhất định cách mạng dân tộc ấy sẽ biến thành cách mạng quốc tế.
– Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Ngay từ khi gặp được luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Trong bài “Cuộc kháng chiến” viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã khẳng định mối quan hệ này: “muốn giải phóng dân tộc trước hết phải giải phóng giai cấp, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa Cộng sản và cách mạng thế giới”.
+ Năm 1930, trong “Chính cương sách lược vắn tắt” Người đã xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội Cộng sản.
+ Năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
+ Tư tưởng này của Hồ Chí Minh phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Xóa bỏ áp bức dân tộc mà không xóa bỏ áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có thiết lập được chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xóa bỏ được tận gộc tình trạng áp bức bóc lột; chỉ có thiết lập được một nhà nước kiểu mới (nhà nước của dân, do dân và vì dân) mới đảm bảo quyền làm chủ của người lao động, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do hạnh phúc của con người. Người nói: “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Do đó giành được độc lập rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì chủ nghĩa xã hội là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”. Hơn nữa sự phát triển đất nước theo con đường của cách mạng xã hội là một đảm bảo vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Vì vậy, Hồ Chí Minh nói: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
Kết luận: như vậy, đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
– Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc:
+ Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
+ Hồ Chí Minh đã khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “ dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
+ Ngay từ năm 1914, trên đất Anh, Người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm từ đồng lương ít ỏi của mình ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với người bạn của mình rằng: “chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.
+ Đầu năm 1930, sau khi chủ trì hợp nhất các tổ chức Cộng sản trong nước lại, Hồ Chí Minh đề nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Người mỗi Đảng Cộng sản là thuộc về một dân tộc, trước hết phải chịu trách nhiệm trước dân tộc mình, bởi vì theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin đã chủ trương dân tộc tự quyết thì cách mạng ở mỗi nước không thể do Đảng Cộng sản của nước khác áp đặt, làm thay.
+ Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không quên nghĩa vụ của mình trong việc gặp gỡ các Đảng Cộng sản anh em.
Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương, phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đánh vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tình khoa học đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. (Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhận định của Ănghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào cách mạng bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính).

0