18/06/2018, 11:39

Quyển III

PHẦN A. Công điền - Tư điền - Điền trang - Hoa châu - Lệ trung thu thóc gạo. Hai xứ Thuận Quảng, về triều đời trước và đến khi họ Nguyễn trấn giữ, chỉ là cứ hằng năm sai người chiếu theo số ruộng hiện cấy mà thu tô thuế. Cảnh-trị năm thứ 7 ...

PHẦN  A.

Công điền  -  Tư điền  -  Điền trang  -  Hoa châu  -  Lệ trung thu thóc gạo.

 

  Hai xứ Thuận Quảng, về triều đời trước và đến khi họ Nguyễn trấn giữ, chỉ là cứ hằng năm sai người chiếu theo số ruộng hiện cấy mà thu tô thuế. Cảnh-trị năm thứ 7 (1669), Dũng-quốc-công Nguyễn-phúc-Tần mới sai quan thuộc đi khám đo ruộng công và ruộng tư. Quan thu thuế thóc, chia làm nhất, nhị, tam ba hạng và phân biệt nơi đất xấu, nơi bãi hoa màu tốt, biên vào sổ sách. Công điền giả về các xã chia đều cho dân để cày, gặt mà nộp thuế. Nếu có người tự đem sức lực của mình khai khẩn những nơi rừng rú bỏ hoang, khi đã thành điền phải khai rõ, liền cho phép coi  như là "bản bức tư điền". Chỉ nhà nước mới có quyền thu thóc tô, còn dân xã không được tranh ruộng tư ấy. Cái lệ ấy thành ra vĩnh viễn.

  Truớc kia, họ Nguyễn lấy công điền các xã coi như của nhà nước, theo lệ nộp tô, đem về chứa ở kho sở tại không cấp "ngụ-lộc" cho các viên chức. Tuớng-thần-lại ở Hộ-bộ giữ sổ sách, thu và nộp. Lại lấy quan-điền-trang và quan-đồn-điền làm của riêng, giao cho dân cày cấy và tá canh, cứ đến mùa sai nguời áp đảo để thôi đốc việc gặt, đem thuyền tải thóc để xung vào nội khố. Khoản "ngụ-lộc" để cấp cho họ hàng và thần hạ đều lấy vào thóc này. Các chức Lệnh-sứ, Câu-kê, Cai-hợp giữ sổ sách thu và nộp, phép lệnh rõ ràng. Vả lại khoản "ngụ-lộc" cấp cho các bà mẹ nhà họ Nguyễn cũng chỉ có 10 mẫu, Chưởng-cơ mỗi nguời 5 mẫu, Cai-cơ 4 mẫu, Cai-đội 3 mẫu rưỡi, nội Đội-trưởng 3 mẫu, Đội-trưởng 2 mẫu ruỡi, rất có chừng mực

  Sách Chu-quan lấy phép xét tính thổ nghi để phân biệt các vật loại về 5 hạng đất : một là núi, rừng, hai là sông, chằm, ba là gò, đống (khâu, lăng), bốn là phần, diễn ( bờ sông gọi là "phần", nơi thấp bằng gọi "diễn"), năm là nguyên, thấp (nơi cao mà bằng phẳng gọi là "nguyên", nơi đất thấp gọi là "thấp"); phân biệt vật loài 12 thứ đất, biết trồng trọt (như ruộng cao trồng lúa mạch, ruộng thấp trồng lúa dạo, khâu, lăng, nguyên, thấp trồng dâu, trồng gai v.v..). Cho nên ruộng đất không thể không phân biệt đẳng, loại để biết rõ nơi bằng, nơi cao, nơi thấp, có tính chất béo gầy, tốt xấu khác nhau. Lấy phép quân bình ruộng đất để phân biệt 5 loại lúa, 9 hạng đất mà đánh thuế để cho dân biết chức phận, để cho phép đánh thuế được hoàn thiện, để thu được tiền thuế, như thế thì nơi nào cũng trồng, cấy, người nào cũng no đủ, thuế khóa nhẹ, rất dễ thu nộp. Lại có quan chức giữ việc giao thông khắp các nơi để đem sản vật nơi này đến nơi khác (như gỗ ở rừng thì rời đến chỗ sông, chằm; cá, muối thì đem lên nơi núi rừng), làm thăng bằng cán cân quả cân, làm một mực sự đo lường. Nghiêm cấm bọn hào cường đầu cơ làm hại người buôn bán, làm cho dễ dàng sự trao đổi hàng hóa được thuận tiện. Như thế thì còn người dân nào nghèo nữa, còn nước chả giàu thịnh vậy du. Cho nên làm cho dân được an cư lạc nghiệp, theo tục của dân, mở mang điều lợi cho dân, trừ bỏ hết cái hại cho dân, những điều ấy là cái việc đầu tiên để vỗ về dân Thuận-hóa vậy.

  Phép thu tô ở Thuận, Quảng : công điền hạng nhất đẳng, thu thóc 40 thăng (bằng 40 bát quan đồng), nhị đẳng thu 30 thăng, tam đẳng thu 20 thăng. Ruộng tư điền cũng thế. Lệ cũ, cứ mỗi lần thu thóc cộng 1000 thăng thì những nguời Cai-trung, Cai-lại và người coi thuyền, người coi việc đong gạt cùng với Đề-đốc, Đề-lĩnh đều đuợc thu tiền hai mạch, gao nửa thăng làm ngụ lộc.

  Lệ thu gạo điền mẫu và lệ phụ tiền ở Thuận-hóa : ruộng nhất đẳng mỗi mẫu phải đóng thóc 40 thăng, nộp gạo 8 hợp, ruộng nhị đẳng mỗi mẫu đóng thóc 30 thăng, nộp gạo 6 hợp, ruộng tam đẳng mỗi mẫu đóng thóc 20 thăng, nộp gạo 4 hợp. Nếu thóc tô  50 thăng thì nộp gao 1 thăng, phụ tiền 3 đồng (văn), thóc tô 1000 thăng thì nộp gạo 20 thăng, phụ tiền 60 đồng (văn). Phép đong cũ ở Thuận-hóa lấy 10 loát là một thược, 10 thược là một hợp, 10 hợp là một thăng, 10 thăng là một hộc, 10 hộc là một thùng. Cái hộc thu thuế thì mỗi hộc 50 thăng (thung), lại phụ thêm 25 thăng, một hộc cộng 75 thăng, lấy 500 thăng là một thùng. Phát lương cho binh thủy, binh bộ thì mỗi hộc 33 thăng 5 hợp, phát cho nội phủ thì cái hộc lại nhỏ hơn, kém cái hộc phát cho binh lính là 3 thăng, cái thăng ở nội phủ cũng hơi nhỏ hơn, còn nơi dân xã mua bán phần nhiều dùng đấu, cái nhớn cái nhỏ không nhất định.

  Xứ Thuận-hóa có 2 phủ, 8 huyện, 1 châu. Lệ thu thóc tô về ruộng công điền và ruộng phụ canh cùng các tộc bức tư điền từ năm Quý tỵ (1773) niên hiệu Cảnh-hưng trở về trước.

  1- Huyện Hương-trà lệ phải nộp thóc 527.670 thăng 6 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực thu thóc là 469.459 thăng 9 hợp, lại trưng thêm thóc 57 thăng.

  2- Huyện Quảng-điền lệ phải nộp thóc là 496.670 thăng 1 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực thu thóc là 481.591 thăng 7 hợp.

  3- Huyện Phú-vinh lệ phải nộp thóc là 692.230 thăng 1 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực thu thóc là 678.860 thăng 2 hợp, lại năm Canh thìn mới thêm thóc 91 thăng.

  4- Huyện Hải-lăng lệ phải nộp thóc là 383.465 thăng 6 hợp, trừ khoản đã được miễn còn thực thu thóc là 347.690 thăng 3 hợp.

  5- Huyện Đăng-xương lệ phải nộp thóc là 428.143 thăng 2 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực thu là 425.092 thăng 7 hợp.

  6- Huyện Minh-linh lệ phải nộp thóc là 300.816 thăng 9 hợp rưỡi, đã nhiều lần khai khẩn thêm, thực thu thóc 300.607 thăng 2 hợp.

  7- Huyện Khang-lộc lệ phải nộp thóc là 411.679 thăng, trừ khoản đã được miễn còn thực thu thóc là 389.500 thăng.

  8- Huyện Lệ-thủy lệ phải nộp thóc 225.272 thăng 7 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực phải nộp thóc là 188.527 thăng 8 hợp, lại năm Bính ngọ mới thêm thóc 2 thăng. Năm Canh tuất mới thêm thóc 70 thăng.

  Châu Nam Bố-chính lệ phải nộp thóc là 163.387 thăng 8 hợp, trừ khoản đã được miễn, còn thực thu thóc là 134.825 thăng, lại năm Canh tuất mới tăng thóc 70 thăng.

  Trực tính mỗi một năm thóc lệ trung thu cộng là 3.619.283 thăng 6 hợp rưỡi, thực thu được 3.533.356 thăng 6 hợp rưỡi. Còn như quan đồn-điền, quan điền-trang  và ruộng hoang mới khai khẩn cùng đất bãi thì đem chia cấp vào khoản ngụ lộc, còn thừa thì thu riêng, nộp riêng không tính vào số trên.

  Ở các xã về 6 huyện xứ Thuận-hóa có quan-đồn-điền cộng là 6494 mẫu 3 sào 12 thuớc 9 tấc.

  Huyện Huong-trà 2 xã 3 trang, ruộng 281 mẫu 6 sào 13 thuớc 3 tấc.

  Huyện Phú-vinh 1 xã 88 mẫu 8 sào, trừ ruộng hoang 79 mẫu, 50 mẫu 6 sào 8 thước không có thuế.

  Huyện Đăng-xương 9 xã 1143 mẫu 7 thước, trừ đất ương cây, đất nhà ở và lưu   hoang 40 mẫu 6 sào 6 thước không có thuế.

  Huyện Hải-lăng 6 xã 1190 mẫu 9 sào 2 thước 9 thốn, trừ đất ương mạ mòng nước, bãi cát, đất chịu thuế khống 81 mẫu 6 sào 10  thước không có thuế.

  Huyện Minh-linh 6 xã 2406 mẫu 10 thuớc 8 thốn, trừ đất ươg cây, kênh, cảng và nơi nước vỡ 111 mẫu 3 sào 7 thước 8 tấc không có thuế.

  Huyện Khang-lộc 5 xã 1384 mẫu 6 sào 3 thước 9 thốn,trừ nhà ở, kênh, cảng, bãi cát, bỏ hoang 200 mẫu 8 sào 11 thước 8 tấc không có thuế.

  Cộng trừ 514 mẫu 2 sào 0 tấc 5 thốn, còn 5980 mẫu 1 sào 13 thước 4 thốn. Lệ nôp thuế về ruộng ấy : ruộng mỗi mẫu hoặc 1 quan, hoặc 9 mạch, hoặc 6 mạch, hoặc 5 mạch, hoặc 3 mạch 30 đồng và tiền phù lưu đều là mỗi mẫu một mạch, lại có khi mỗi mẫu một mạch 30 đồng, hoặc 2 mạch, hoặc 2 mạch 30 đồng, tiền phù lưu mỗi mẫu 30 đồng, nhiều ít không nhất định. Khi có ruộng hoang điền mới khai thì trưng thuế mỗi mẫu 3 mạch còn tiền phù lưu một nửa nộp vào kho, một nửa cấp cho quan Lệ-bộ.

  Quan-điền-trang ở xứ Thuận-hóa chia làm hai tích : tích thứ nhất có 750 mẫu 7 sào. Huyện Hương-trà 2 xã hạ điền 401 mẫu giao cho dân cày cấy, sai đội thuyền Tân nhất đến trông nom sự cấy và sự gặt, phải nộp theo mỗi mẫu 8 hộc 5 thăng (do mỗi hộc 25 thăng) và hạ điền 7 sào 1 thước, nội phù sa mỗi sào 1 tiền (mạch) 30 đồng (văn), ngoại phù sa mỗi sào 1 tiền (mạch). Thu-điền 5 mẫu 1 sào 13 thước, nội phù sa mỗi mẫu 1 quan (quán) 5 tiền (mạch), ngoại phù sa mỗi mẫu 1 quan.

  Huyện Minh-linh 9 xã, hạ điền 201 mẫu 6 sào, thu-điền 142 mẫu 2 sào chia làm 3 hạng: ruộng mỗi mẫu hoặc 1 quan, hoặc 9 mạch, hoặc xuống đến 5 mạch. Ruộng nước xấu thì mỗi mẫu 1 quan 5 mạch, đất ương mạ mỗi mẫu hoặc 6 mạch xuống đến 2 mạch. Một tích cộng 773 mẫu 3 sào 19 thuớc 4 tấc.

  Huyện Quảng-điền 2 xã 1 phường, hạ điền cộng 201 mẫu 12 thước, trong số ấy có quan điền 70 mẫu 4 sào, sai đội thuyền Tân-nhất đến trông coi sự gặt và thu gạo nếp, phải nộp 3 phần, còn một phần để lưu làm thóc giống. Cho tá điền cấy 49 mẫu 5 thước, thu thóc nếp 190 hộc 2 thùng (một hộc là 3 thúng), thóc tô 90 hộc 2 thúng. Ruộng có mộ 2 mẫu 4 sào thì thu tiền thuế riêng ra.

  Huyện Đăng-xương có sở đồn điền, hạ điền 48 mẫu, sai đội thuyền Tân-nhất đến trông nom sự gặt và thu thóc, lưu lại 1 phần làm thóc giống, còn phải nộp 1 phần.

  Huyện Minh-linh, tổng Bái-giời 25 phường, thu điền công 524 mẫu 3 sào 1 thước 4 tấc trong số có quan điền 262 mẫu 8 sào 10 thước 1 thốn. Sai đội thuyền Tân-nhất đến trông nom sự gặt, thu thóc nếp trung, thóc nếp bốt, thóc nếp sót, thóc bạch-ly, thóc dự, lưu lại thóc giống 1 phần, đem nộp 4 phần. Còn thổ xấu, thổ khô, thổ ương mạ, thổ chân đe, thổ chân rừng là 262 mẫu 3 sào 6 thước 3 tấc, cho người lĩnh canh thu riêng tiền thuế ấy, mỗi mẫu hoặc 1 quan 5 mạch, hoặc 1 quan, hoặc 7 mạch, hoặc 5 mạch  30 văn hoặc 5 mạch.

  Truớc kia họ Nguyễn mới đặt Nông-sứ-ty để giữ việc bổ và thu các ruộng mới khai khẩn. Tra cứu về năm Giáp ngọ (1774) Thuận-hóa 8 huyện khai ruộng hoang cộng 1510 mẫu 3 sào 3 thuớc 9 thốn, trong số ấy có "quán A lang-điền" 8 sào 13 thuớc 5 thốn ở phuờng La-sơn huyện Phú-vinh. Nhất đẳng mỗi sào trưng thóc 10 thăng, nhị đẳng, tam đẳng mỗi sào trưng thóc 5 thăng. Còn điền ở các huyện 246 mẫu 3 sào 8 thước 4 thốn, dẫu có chia nhất, nhị, tam ba bậc, nhất luật thu mỗi mẫu 24 thăng, cứ tùy từng năm định giá thu khoán tiền nộp thay thóc. Đến như thu-điền, khô thổ 1249 mẫu 3 sào 9 thuớc 7 thốn thì không chia hạng, cứ mỗi mẫu trưng thu 3 mạch và ngoại phí đều thu 1 mạch.

  Thuế đất hoa B ở châu Thuận-hóa, mỗi một mẫu hoặc 3 quan hoặc 3 tiền, nộp trước thì lấy bạc thay tiền, nộp sau thì lấy tiền tay bạc, bạc mỗi hốt ăn giá vào tiền là 17 quan. Khoản ngụ lộc của nguời coi châu cứ mỗi quan cho tiền ngoại 2 mạch. Khi dân có  tậu mua ruộng đem văn khế ra xin chữ phê thì phải nộp nội lễ mỗi sào là 2 mạch. Thân thuộc họ Nguyễn điền ngay vào văn khế và phê duyệt cho, rất là phiền toái, về phần Tuớng-thần-lại giữ sổ lần lượt giao lại cho nhau, mà khi hỏi đến xứ, sở ruộng và số mẫu, sào, thước, tấc thì họ không biết, mà chỉ bằng cứ ở số tiền đã nộp. Sổ năm Mậu thân (1728) thì chỉ thấy biên huyện mỗ, xã mỗ, họ mỗ số ngân bao nhiêu hốt, lạng mà thôi. Sổ năm Bính thìn (1736) cũng thế, trong có biên thuế hoa-châu các huyện đã chuẩn trừ rồi, chỉ còn số tiền nộp thay và số tiền mới tăng. Huyện Hương-trà 283 quan 8 mạch 15 đồng (văn). Huyện Quảng-điền 253 quan 4 mạch 6 đồng. Huyện Phú-vinh 138 quan 3 mạch 2 đồng. Huyện Đăng-xương 352 quan 5 mạch 41 đồng, lại có một phường họ biệt nạp, cộng 102 quan 9 mạch 15 đồng. Huyện Hải-lăng 289 quan 2 mạch 14  đồng. Huyện Minh-linh 53 quan 6 mạch 18 đồng. Huyện Lệ-thủy 14 quan 4 mạch 15 đồng. Châu Bố-chính 48 quan 7 mạch 45 đồng. Tất cả số kê trên cộng tính tiền thuế một năm đuợc 1497 quan 1 mạch 22 đồng.

  Kỳ này khiến các huyện kê khai từng loại ruộng hoa châu: huyện Hương-trà 98 mẫu 6 sào 9 thước. Huyện Quảng-điền 111 mãu 8 sào 1  thước. Huyện Phú-vinh 10 mâu 9 sào 2 thước 2 thốn. Huyện Đăng-xương 204 mẫu 2 sào 3 thuớc 1 thốn. Huyện Hải-lăng 176 mẫu 4 sào 10 thước  6 thốn. Huyện Minh-linh 33 mẫu 5 sào 2 thuớc. Huyện Lệ-thủy 7 mẫu 8 sào 4 thốn. Tất cả số kể trên cộng đuợc 660 mẫu 4 sào 11 thước 3 thốn.

     

            Thể lệ nộp điền tô ở các huyện xứ Thuận-hóa.

  Các tổng, xã, thôn, phường và ruộng phụ canh, ruộng các họ phải nộp tiền và gạo điền mẫu. Theo như sổ năm Kỷ sửu (1769), huyện Hương-trà gạo điền mẫu 7996 thăng 7 hợp 6 thược (do 40 thăng là một bao), phụ tiền 29 quan 9 mạch 48 đồng ( do một bao phụ tiền một mạch). Huyện Quảng-điền gạo điền mẫu 7176 thăng 2 hợp 3 thược đóng làm 179 bao 16 thăng 2 hợp 3 thược, phú tiền 35 quan  48 đồng. Huyện Phú-vinh gạo điền mẫu 12.430 thăng 3 hợp 3 thược đóng làm 310 bao 30 thăng 3 hợp 6 thuợc, phụ tiền 62 quan 1 tiền 30 đồng. Huyện Hải-lăng gạo điền mẫu 7246 thăng đóng làm 181 bao 6 thăng, phụ tiền 36 quan 2 tiền 18 đồng. Huyện Đăng-xương gạo điền mẫu 8137 thăng 7 hợp đóng làm 203 bao 11 bao 7 hợp, phụ tiền 40 quan 6 mạch 33 đồng. Huyện Minh-linh gạo điền mẫu 7106 thăng 7 hợp đóng làm 172 bao 6 thăng 7 hợp, phụ tiền 35 quan 4 mạch 48 đồng. Huyện Lệ-thủy gạo điền mẫu 3736 thăng 8 hợp đóng thành 93 bao 16 thăng 8 hợp, phụ tiền 18 quan 6 mạch 21 đồng. Huyện Khang-lộc gạo điền mẫu 6955 thăng 7 hợp đóng làm 175 bao 35 thăng 7 hợp, phụ tiền 34 quan 6 mạch 49 đồng. Châu Nam Bố-chính gạo điền mẫu 2879 thăng 3 hợp 4 thuợc 2 sào 7 loát đóng làm 71 bao 39 thăng 3 hợp 4 thuợc 2 sào 7 loát, phụ tiền 14 quan 3 mach 57 đồng.

  Phường Bạch-câu khách ở Hội-môn thuộc huyện Minh-linh nộp điền tô thay bằng cá khô 330 con. Năm Kỷ sửu tính số thực điền cùng số mới tăng chưa cấy được cộng 21 mẫu, nộp thêm cá 20 con.

  Gạo điền mẫu ở các huyện xứ Thuận-hóa, sau khi đã phát ngụ lộc cho các nha, còn lại bao nhiêu bao, đều đệ nộp vào kho Hếu mễ, cũng có xã cho nộp tiền thay. Về huyện Quảng-điền số tiền gạo cung đốn cũng để làm ngụ lộc cho Cai-trung, Đội-trưởng, quan coi kho cùng Sai-viên Bản đường, còn thừa thì chở đi nộp kho. Thuận-hóa đến kỳ thu thuế, các xã thôn cày ruộng công đều theo lệ đem thóc gạo lại chứa để ở trong dinh, rồi đều phải đem đến kho trường thu thuế, quan Bản đường đợi sẵn ở đó chiếu theo lệ thu lấy tiền giao cho quan đề lĩnh ở kho. Lính coi kho chứa để vào kho. Về các tộc điền nếu ai không muốn nộp ở Bản đường, cũng cho phép nộp ở Cai-trung. Như năm Kỷ-sửu, Cai-trung nộp khoản tiền thay nộp tô cộng 87 quan của các họ ở Quảng-điền, lại nộp thay cho các tổng, xã, thôn, phường và phụ canh, tộc điền về các thứ tiền trúc niêm (cái cót), tiền khoán kho thuộc về huyện Quảng-điền cộng 337 quan. Năm Mậu-tý (1768), các xã, thôn, phường thuộc xứ Quảng-nam, những ruộng trưng cũ, ruộng trưng mới và bỏ hoang mỗi mẫu nộp 36 đồng kẽm ruộng thu điền cao táo mỗi mẫu 18 đồng kẽm, số tiền ấy biệt nạp vào quan Tu-nông.

  Từ xưa đến nay cách lập pháp cần cho giản dị mà đầy đủ, cách dùng người cần một số ít mà sành sỏi, phép giản dị thì dễ kê cứu, số nguời ít thì không nhiễu dân. Thuế khóa ở Thuận-hóa, pháp lệnh quá nhiều, nhân viên trưng, đốc quá nhiều, cho nên cùng dân thường khổ sở và nỗi đóng góp gấp hai lần, nào là kẻ Tu-lại, nào là quan Bản-đường bớt xén làm cho mất tang tích, không thể nào kê tra ra được.

  Số ruộng hiện canh ở Thuận-hóa đã kê rõ số mẫu và xứ sở từ năm thứ 7 Cảnh-trị (1669) đến nay là Cảnh-hưng năm thứ 31 (1770), đã 102 năm rồi, giấy chữ mọt nát là cái lẽ tất nhiên. Tháng ba năm nay, họ Nguyễn sai huyện quan các huyện cùng thông lại soạn sổ điền thổ các xã và tộc điền quy làm một tập. Huyện Hương-trà 10 tổng 222 xã, thôn, phường, quy làm 8 tập. Huyện Quảng-điền 8 tổng 137 xã, thôn, phường, quy làm 4 tập. Huyện Phú-vinh 6 tổng 352 xã, thôn, phường, quy làm 15 tập. Huyện Đăng-xương 5 tổng 188 xã, thôn, phường quy làm 8 tập.  Huyện Minh-linh 5 tổng 227 xã, thôn, phường, quy làm 5 tập. Huyện Khang-lộc 6 tổng 83 xã, thôn, phường, tộc bức, quy làm 6 tập. Huyện Lệ-thủy 5 tổng 73 xã, thôn, phường, quy làm 4 tập. Châu Nam Bố-chính 2 tổng 54 xã, thôn, phường, quy làm 1 tập. Duy có huyện Hải-lăng có sổ cũ về năm Mậu-tý (1768) bị nước lụt trôi mất, không bao lâu thì quân nhà vua đến đánh lấy Thuận-hóa, bắt được các sổ sách ở kho còn rõ ràng, có thể cứu xét được, vì từ năm  Canh-dần (1770) đến năm Ất-vị (1775) mới có 6 năm mà thôi.

  Năm Giáp-ngọ (1774), quân nhà vua bình định xứ Thuận--hóa, cho tha miễn tô thuế hai năm. Năm Bính-thân (1775),  tháng 4, hạ lệnh cho các huyện quan chuyển sức cho các tổng, xã lược khai công, tư điền thổ ruộng tam bảo, đất hoa-châu, quan điền trang, quan đồn điền, tộc điền trung riêng, cùng số ruộng lưu hoang chưa khai khẩn. Khai rõ mẫu, sào, thước, tấc, để biết đại khái, không cần phải kê xứ, sở, thứ bậc. Hai tháng kê xong, thông tính một xứ thực số ruộng được 153.181 mẫu 1 sào  thước 3 tấc. Số ruộng ấy chia ra như sau : Huyện Hương-trà ruộng 33.267 mẫu 13 thước 4 tấc, trong số ấy trừ lưu hoang, chân rừng, gò đống, mộ địa cộng 13.845 mẫu 5 sào 8 thuớc 8 tấc, thực còn lại ruộng đất 19.442 mẫu 1 sào 3 thước 6 tấc. Huyện Quảng-điền ruộng cộng 14.020 mẫu 4 sào 4 thuớc 1 thốn, trong số ấy trừ lưu hoang, mộ đia, ruộng khô, đất cao, phụ lũy, vuờn công, thổ chợ, chùa Bảo-quốc cộng 3.600 mẫu 8 sào 3 thước 3 tấc, thực còn lại ruộng đất 10.419 mẫu 6 sào 8 tấc. Huyện Phú-vinh ruộng cộng 39.574 mẫu 6 sào 5 thuớc 6 thốn, trong số ấy trừ lưu hoang, thổ mộ 11.540 mẫu 4 sào 4 thước 8 tấ 1 phân, thực còn lại ruộng đất 28.034 mẫu 2 sào 7 thốn 9 phân. Huyện Đăng-xương ruộng cộng 25.524 mầu sào 8 thước 3 tấc 3 phân, trong số ấy trừ lưu hoang, gò đống, mộ địa, đầm công, đồn mới và cảng mới khơi 10.919 mẫu 5 sào 1 thuớc 3 tấc 4 phân thực còn lại ruộng đất 14.604 mẫu 7 sào 6 thước 8 tấc. Huyện Hải-lăng ruộng cộng 26.871 mẫu 6 sào 7 tấc 2 thốn, trong số ấy trừ lưu hoang gò đống, nơi nước vỡ, nơi bãi cát 6.706  mẫu 6 sào 6 thước, thực còn lại ruộng đất  21.065 mẫu 1 thước 2 tấc. Huyện Minh-linh ruộng cộng 39.807 mẫu 7 sào 8 thước 5 thốn 4 phân, trong số ấy trừ lưu hoang, chân rừng 15.811 mẫu 9 sào 11 thước, còn lại thực số ruộng đất 24.065 mẫu 12 thước 5 thốn 3 phân. Huyện Lệ-thủy ruộng cộng 16.643 mẫu 5 sào 12 thước, trong số ấy trừ lưu hoang, mộ địa 7.832 mẫu 5 sào 10 thuớc 8 tấc, còn lại thực số đất ruộng 8.011 mẫu 1 thuớc 2 tấc. Huyện Khang-lộc ruộng cộng 41.604 mẫu 5 sào 4 thước 9 thốn 5 phân, trong số ấy trừ lưu hoang 21.237 mẫu 7 sào 11 thước 5 phân, còn lại thực số ruộng đất 20.366 mẫu 2 sào 8 thước 9 tấc. Châu Nam Bô-chính ruộng đất cộng 28.173 mẫu 7 sào 3 tấc, trong số ấy trừ lưu hoang gò đống, mô địa, rừng đồi 20.831 mẫu 3 thước, còn lại thực số ruộng đất 7.342 mẫu 6 sào 12 thước 3 thốn. Số điền thổ 9 huyện cộng 265.507 mẫu 4 sào 2 thuớc 3 tấc, trong số ấy trừ lưu hoang 112.326 mẫu 2 sò 12 thước, còn lại số ruộng thực canh 153.181 mẫu 1 sào 5 thước 3 tấc.

  Thuận-hóa sau khi 200 năm sinh tụ, làng xã liên tiếp nhau. Xem như sổ đinh năm Quý-tỵ (1773), 9 huyện và châu có 862 xã, thôn, phường, số nguời cộng 126.857 nguời, nộp sai dư các khoản tiền đến 153.600 quan 5 mạch. Như thế cũng khá gọi rằng giàu thịnh vậy. Mà thực số ruộng chỉ có 153.181 mẫu, thế chả phải là số người nhiều mà số ruộng thì ít ư ? Truớc kia sự buôn bán ở Đồng-nai lưu thông, gạo ở Phú-xuân 10 thăng là một hộc (là 12 bát quan đông) giá tiền là tiền (mạch) dư lương ăn một người trong một tháng, khi ấy dân chưa cần về sự làm ruộng. Hiện nay ở Quy-nhân nẩy mầm loạn, gia đinh cách trở, nhân dân mới lo sự thiếu ăn. Cho nên từ khi quân nhà vua bình định Thuận-hóa đến nay, giá gạo đắt mà giá ruộng cũng cao. Nhân dân 3 huyện Hương-trà, Quảng-điền và Phú-vinh vì sự thế chấp ruộng và sự chuộc ruộng mà sinh ra kiện cáo tốn tiền. Năm Bính-thân (1776), tháng tư ban bố các điều hiểu thị, muốn cho dân tuân theo dàn xếp với nhau để khỏi mối tranh tụng. Nhưng thói tệ tục vẫn chưa làm sao mà ngăn hết được, thường có kẻ moi móc cái văn khế của một người đàn bà đã bán đứt ruộng tư điền từ 40 năm truớc bảo là công điền của đồng xã mà đem ra tranh kiện, có kẻ chỉ cái văn khế của một nguời đã bán đứt vuờn riêng từ hơn 10 năm về trước bảo là ruộng hương hỏa của bản tộc mà đi thưa.

  Tháng 4 ngày 20 năm Bính-thân (1776) niêm yết các điều hiểu thị ở trấn phủ nha nội như sau :

  a)  Công điền các xã đều có sổ hiện canh vì bị phải đền về khoản thiếu tô thuế các phủ huyện đã được quan phê phó cho được bán đứt làm tư điền hay là tự viết làm ruộng tư để bán, để  đến nỗi dân không có ruộng làm nghề sinh sống. Vậy thì các tệ ấy phải nên chỉnh đốn lại. Phàm công điền bán đứt không cần hỏi đến năm tháng, lâu chóng, thay đổi nhiều chủ, nhất thiết đều cho theo rõi văn khế mà chuộc ruộng lại để chia cấp làm ăn, người mua không đuợc cố chấp. Sau khi đã chuộc thì về sau không được bán đứt nữa. Nếu trái lệnh này thì kẻ mua nguời bán đều có tội.

  b)  Công điền các xã trước kia bị công nợ đem cố hay bán rất nhiều, phần nhiều kéo dài niên hạn, đến nỗi nhân dân không có ruộng mà cấy, nay hãng quyền tạm châm  chước mà thi hành : phàm đồng xã cố ruộng công từ 10 mẫu trở lên, số tiền chưa hết hạn tiêu hủy, đều chiết một nửa ruộng trả lại dân để làm nghề sinh sống, các xã dân chiếu theo trong văn khế cố ruộng trả lại nửa số tiền cho nguời mua ruộng. Nếu khi bán có giao hẹn đến kỳ chuộc lại thì được phép chuộc. Còn số ruộng công điền khẩu phần đem cố tá cũng theo lệ này. Từ nay về sau, phàm cố tá định từ một năm rưỡi đến hai năm làm chuẩn đích, không được  quá hạn ấy.

  c)  Phàm các xã thôn mọi nguời có khẩu phần công điền hay vườn đất, có khi bán đứt cho người trong xã thế vào làm khẩu phần mà người ta đã lập thành gia cư và giồng cây cối thì không được viện nhẽ là công điền mà đòi chuộc lại.

  d)  Phàm ruộng đất hương hỏa phụng thờ, có tờ chúc thư của ông cha để lại thì mới được truy thục, còn ruộng kỷ phần của tổ tiên thì người đã bán đứt ấy không được thác cớ là ruộng hương hỏa mà đòi chuộc. Đến như ruộng của bác, chú, cô, cậu, chị em đã bán hay cho người khác rồi thì cũng không được nhờ người thân thích ấy đến chuộc.

  đ)  Phàm điền thổ đã bán đứt  thì không được chuộc, nếu trong văn khế có nói "năm, tháng... đến chuộc" thì đuợc theo như văn khế đã hẹn, nếu trong văn khế chỉ nói "sau này sẽ chuộc" mà để đến ngoài 30 năm thì cũng không được phép chuộc.

  e)  Phàm chuộc ruộng đất, về hạ điền thì 15 tháng 9, thu điền thì 15 tháng 3 là kỳ hạn chuộc, để quá kỳ ấy không được chuộc. Nếu trong kỳ hạn ấy đã đem tiền đến chuộc hiện có nguời chứng kiến, mà nguời mua ruộng cố ý khiện duyên để cho quá kỳ hạn thì người có ruộng bán vẫn được chuộc.

  g)  Phàm con giai 16 tuổi, con gái 20 tuổi trở lên, ruộng đất của những người ấy, hoặc do người trong họ cấy hay ở đã 30 năm, hoặc do người ngoài cấy hay ở đã 20 năm, thì không được nhận nữa, nếu vì sự loạn lạc, phiêu tán mới về thì không câu nệ luật ấy.

  Người làm việc cai trị không gì hay bằng tìm cách khiến cho dân đều có nghề nghiệp, đó chính là nghĩa câu có hằng sản thì có hằng tâm vậy, không gì dở bằng để cho dân bỏ làng đi phiêu lưu, đó chính là nghĩa câu không có hằng sản thì không có hằng tâm vậy.

  Phủ Quảng-bình, Thuận-hóa, dân phong thật thà, chỉ ở trong làng làm ruộng, ít khi đi ra ngoài, ngay đến đường lối ở huyện láng giềng, phong cảnh ở thành Phú-xuân, họ đều không biết. Phủ Triệu-phong nhiều nguời ở ngụ cư, không có những dân du thủ du thực và gái ăn chơi, nhân dân ở đấy cũng chỉ làm ăn ở nơi thôn xã, không thích ra ngoài thành thị. Phong tục ấy rất tốt. Người làm việc trị dân phải trong sạch, đừng sinh sự nhiễu dân. Khi dân có kiện tụng, khéo hiểu dụ cho dân hòa mục với nhau, thế thì toàn cảnh đều được yên hàn vậy.

  25 huyện 1 châu xứ Quảng-nam, số công điền của các tổng, thuộc, xã, thôn và các tộc bức tư điền rất nhiều, trừ số ruộng đất lưu hoang, chịu thuế khống, ròng nước, bãi cát, xưởng, bến tàu, chùa miếu v.v... Căn cứ ở số ruộng, từ năm Giáp-thân (1764), Đinh-hợi (1767) trở về và số thực thu thóc tô, Lệnh Sứ-ty thu An-nông, Duyên-khánh, 2 huyện ở  phủ Điện-bàn, ruộng thực trung 23.817 mẫu 5 sào 8 thước 1 thốn 4 phân, thóc lệ  538.019 thăng. Hai huyện Hòa-vinh, Tân-phúc ruộng thực trưng 17.125 mẫu 10 thuớc 4 thốn, thóc lệ là 385.436 thăng 1 hợp. Huyện Phú-châu không có ruộng và không có lệ thóc.

  Tướng-thần Lại-tu thu phủ Thăng-hoa, Hà-đông, Duy-xuân, Lễ-dương, Chính-huyện, Tân-huyện cộng 6 huyện và các thuộc ruộng thực trung 72.357 mẫu 11 thước 22 thốn 4 phân, thóc lệ 1.681.294 thăng. Đến như các món tiền nộp thay về ruộng có của công điền thổ, điền trang các trại nộp theo thóc nếp và điền tô tá canh của các xã tính nộp thay bằng tiền. Số điền tô ở ruộng tam bảo trại Trà-đinh và xã Điền-tô Thanh-hà đều không tính vào các số kể trên.

  Ba huyện Bình-son, Chương-nghĩa, Mộ-hoa (Quảng-nghĩa) ruộng thực trưng 52.639 mẫu 2 sào 3 thuớc 3 thốn 6 phân, thóc lệ 1.221.882 thăng 4 hợp. Số tiền nộp thay điền tô của xã Thanh-hào và phường Cù-lao-lý không tính vào số ấy.

  Ba huyện Bồng-sơn, Phù-ly, Tuy-viễn (Quy-nhân) ruộng thực trưng 72.600 mẫu 5 sào 12 thước 8 thốn 2 phân, thóc lệ 1.540.678 thăng. Ruộng lưu hoang và số tiền nôp thay điền trang không tính vào số ấy.

  Lệnh-sử-ty thu phủ Quy-nhân ba thuộc Thời-tú, Thời-đôn, Thời-hòa và hai thuộc Hà-bá, Hà-nghiên, ruộng thực trưng 20.343 mẫu 2 sào 5 thước 3 phân 4 ly ruỡi, lệ quan mễ 1.526 bao (mỗi bao 14 thăng) 5 hợp rưỡi, gạo tẻ 223 bao 8 bát 2 hợp rưỡi (mỗi bao 23 bát), khoản tiền nộp thay điền tô của trường gạo tẻ trắng ở họ Thời-thông huyện Tuy-viễn không tính vào số ấy.

  Tướng-thần Lại-ty thu phủ Phú-an hai huyện Đồng-xuân, Tuy-hòa ruộng thực trưng... thóc lệ 128.914 thăng 7 hợp, khoản tiền nộp thay ruộng lưu hoang, ruộng mới trưng, đất giồng dâu và bãi phù sa không tính vào số ấy.

  Phủ Bình-khang hai huyện Quảng-đức, Tế-an và thuộc Hà-bá ruộng thực trưng 6.148 mẫu 8 thuớc 3 thốn, thóc lệ 161.421 thăng, khoán tiền nộp thay châu thổ lưu hoang không tính vào số ấy.

  Phủ Duyên-khánh ba huyện Phúc-điền, Vinh-xương, Hòa-châu và hai thuộc Hà-bá, Tân-ninh ruộng thực trưng 5.920 mẫu 1 thước 1 tấc, thóc lệ 405.959 thăng 6 hợp 2 thước, châu thổ lưu hoàng và ao chuôm khoán tiền nộp thay không tính vào số ấy.

  Phủ Bình-thuận hai huyện An-phúc, Hòa-đa và các thuộc không có lệ điền mẫu và thóc tô.

  Phủ Gia-định huyện Tân-bình ruộng thực trưng 1.452 mẫu 2 sào 8 thước 1 tấc, thóc lệ  29.815 thăng 3 hợp 3 thực, các khoản tiền nộp thay đất giồng dâu, giồng mía, vườn giầu không, điền tô các tộc và lính canh quan đồn điền không tính vào số ấy, còn ruộng núi thì chiếu theo số đinh nộp thóc tính riêng.

  Huyện Phúc-lộc ruộng thực trưng 787 mẫu 6 sào 11 thuớc 7 thốn, thóc lệ 15.756 thăng 3 hợp 8 thược, các khoản tiền nộp thay về ruộng giồng dâu, giồng mía và các tên lính canh quan đồn điền không tính vào số ấy, còn ruộng núi thì các lạch chiếu theo số đinh nộp thóc, tính riêng. Thông tính một xứ ruộng thực 27 vạn mẫu, đồng niên thóc lệ cộng 6.048.526 thăng 8 hợp, gạo lệ 61.040 thăng 5 hợp rưỡi, gạo thơm 20.357 bát 1 hợp rưỡi.

  Đất Đồng-nai  phủ Gia-định có tiếng là nơi đất hoa mầu tốt vào bậc nhất, số thuế năm Kỷ-sửu (1769) huyện Tân-bình ruộng núi có 751 người nộp, thóc thuế 1.902 hộc. Huyện Phúc-long ruộng núi có 245 người nộp,  thuế thóc 576 hộc. Châu Định-viễn ruộng núi, ruộng cỏ có 2.937 nguời nộp, thuế thóc 6.144 hộc. Nay xem Cai-bạ Đức-hiến-hầu  Nguyễn-khoa-Thụy ở dinh Long-hồ đã kê thì huyện Tân-bình hai thuộc Quy-an, Quy-hóa số dân đều hơn ba nghìn đinh, số điền đều hơn năm nghìn thửa. Mỗi thửa nộp thuế hạng nhất 6 hộc, hạng nhì 5 hôc, hạng ba 4 hộc. Thuộc Tam-lạch số dân hơn bốn nghìn đinh, số điền hơn năm nghìn thửa. Hai trại Bà-lai và Bà-kén số dân hơn bốn nghìn đinh, số điền hơn bốn nghìn thửa, mỗi thửa nộp thuế hạng nhất 4 hộc, hạng nhì 3 hộc, hạng ba 2 hộc. Huyện Phúc-long trường gian-thảo ruộng hơn sáu nghìn thửa, mỗi thửa nộp thuế hạng nhất 10 hộc, hạng nhì 8 hộc, hạng ba 6 hộc. Châu Định-viễn số dân hơn bảy nghìn đinh, số điền hơn bảy nghìn thửa, mỗi thửa nộp thuế hạng nhất 4 hộc, hạng nhì 3 hộc, hạng ba 2 hộc. Nhưng dù sao tô thuế mỗi năm không khỏi có sự di lậu vậy. Nguyễn-khoa-Thuyên kể truyện : "Huyện Tân-bình và Phúc-long thuộc Quy-an và Quy- hóa, ruộng cầy lên mà giồng lúa, giồng một hộc thóc thì gặt đuợc một trăm hộc thóc. Châu Định-viễn thuộc về Tam-lạch, trường Bà-canh ruộng không phải cày, chỉ phát cỏ mà giồng lúa, giồng một hộc thóc thì đuợc ba trăm hộc thóc". Vậy đủ biết ruông ấy tốt biết nhường nào !

  Thể lệ thu tô ở các huyện thuộc xứ Quảng-nam. Những ruộng tộc điền và ruộng xã, thôn, phường cùng ruộng phụ canh phải nộp gạo điền mẫu và tiền cung đốn : 

  Năm Kỷ-sửu, 4 huyện ở phủ Điện-bàn nộp số gạo điền mẫu và tiền cung đốn cộng 465 bao 50 thăng 6 hợp và 273 quan 5 mạch 45 đồng kẽm. Phủ Thăng-hoa 6 huyện chánh và tân số gạo điền mẫu 1.342 bao 9 thăng 4 hợp và số tiền cung đốn cộng 639 quan 1 mạch 48 đồng kẽm. Phủ Quảng-nghĩa  3 huyện số gạo điền mẫu  và tiền cung đốn 559 bao 22 thăng 2 hợp và 167 quan 9 mạch 8 đồng kẽm. Phủ Quy-nhân 3 huyện số gạo điền mẫu 1.028 bao 5 thăng 3 hợp và số tiền cung đốn 528 quan 7 tiền 8 đồng kẽm. Phủ Phú-an 2 huyện số gạo điền mẫu 101 bao 28 bát, sô tiền cung đốn 81 quan 7 mạch 39 đồng kẽm. Phủ Bình-khang 2 huyện số gạo điền mẫu cộng 141 bao 28 thăng 1 hợp, số tiền cung đốn cộng 59 quan 2 mạch 52 đồng kẽm. Phủ Duyên-khánh 3 huyện số gạo điền mẫu cộng 140 bao 16 thăng 8 hợp, số tiền cung đốn 43 quan 8 mạch 44 đồng kẽm. Phủ Gia-định huyện Tân-bình số gạo điền mẫu 303 bao 34 thăng 4 hợp, số tiền cung đốn cộng 19 quan 3 mạch 6 đồng kẽm. Huyện Phúc-long thuế điền mẫu và tiền cung đốn cùng các thứ gạo thường tân (gạo mới) gạo cánh trắng cộng 113 bao 32 thăng 5 hợp 3 thực.

  Kho chứa thóc phải dùng phên cót bằng tre dài 8 thuớc ngang 7 thuớc 5 thốn, bổ vào nguời có ruộng, cứ mỗi xã thóc 1.000 thăng thì phải nộp 5 phiến phên tre, nộp thay bằng tiền thì phải nộp 2 tiền (mạch). Số phên dùng để chứa thóc ở kho còn thừa thì lấy tiền đó làm ngụ lộc cho Cai-nha, Cai-lại và Bản-đường.  Mỗi tích, mỗi huyện nộp 100 phiến. Ngụ lộc của quan coi kho và lính giữ kho đều hơn 10 phiến, lại còn lễ biếu các quan Tứ trụ, lục bộ, Tri bạ, Tri thuế mỗi một viên thì mỗi huyện nộp 20 phiến, tính số còn thừa thì thu khoản tiền ấy vào kho. Xem chánh sách như trên thật là tủn mủn quá lắm vậy. Xét lệ phên tre ở các huyện xứ Thuận-hóa về năm Kỷ-sửu : huyện Hương-trà trừ số đề cập lang điền còn thu 296 phiến vào kho và 1.760 phiến 3 giác rưỡi thay vào nộp tiền 352 quan 3 mạch. Huyện Quảng-điền trừ số đề cập lang điền, còn thu 189 phiến vào kho và 1.597 phiến 3 giác thay nôp tiền 320 quan 8 mạch 55 đồng kẽm. Huyện Phú-vinh trừ số đề cập lang điền còn thu 348 phiến vào kho và 2.688 phiến 3 giác thay nộp tiền 537 quan 7 mạch 51 đồng kẽm. Huyện Hải-lăng trừ số đề cập lang điền còn thu 355 phiến vào kho và 1.418 phiến 3 giác, thay nộp tiền 283 quan 7 mạch 30 đồng kẽm. Huyện Đăng-xương thu 362 phiến vào kho và 1.624 phiến 3 giác thay số tiền 322 quan 8 mạch. Huyện Minh-linh thu 458 phiến vào kho và 1.440 phiến 1 giác thay số tiền 280 quan 3 mạch 22 đồng kẽm. Huyện Khang-lộc thu 304 phiến vào kho và 1.426 phiến 2 giác ruỡi thay số tiền 285 quan 3 mạch 30 đồng kẽm. Huyện Lệ-thủy thu 275 phiến vào kho và 668 phiến nửa giác thay vào số tiền 133 quan 6 mạch 11 đồng kẽm. Châu Nam Bố-chính thu 39 phiến vào kho và 680 phiến 3 giác rưỡi thay số tiền 36 quan 1 mạch 45 đồng kẽm.

  Lệ phên tre ở các huyện xứ Quảng-nam :  2 huyện Hòa-vinh, Tân-phúc ở phủ Điện-bàn thu 251 phiến vào kho và 1.185 phiến thay số tiền 236 quan 2 mạch. An-nông, Duyên-khánh hai huyện thu 387 phiến vào kho và 1.668 phiến thay tiền 330 quan 7 mạch. Phủ Thăng-hoa chính và tân 6 huyện thu 1.111 phiến vào kho và 5.249 phiến thay số tiền 1.049 quan 3 mạch 30 đồng tiền kẽm. Phủ Quảng-nghia 3 huyện thu 1.720 phiến vào kho và 2.372 phiến thay số tiền 474 quan 5 mạch 25 đồng kẽm. Phủ Quy-nhân 5 huyện thu 3.020 phiến vào kho và để làm ngụ lộc cho thuyền Hữu-hậu lại 3.092 phiến 2 giác thay số tiền 618 quan 8 mạch. Phủ Phú-an 2 huyện thu 374 phiến vào kho và 547 phiến 1 giác thay số tiền 109 quan 4 mạch 30 đồng kẽm. Phủ Duyên-khánh 2 huyện, phủ Bình-khang 2 huyện, phủ Bình-thuận 2 huyện, phủ Gia-định 3 huyện 1 châu đều không có lệ phải nộp phên tre về 2 xứ Thuận-hóa và Quảng-nam cộng là 5.595 quan 7 mạch 19 đồng kẽm.

    Phần B :  Dinh, Trấn, Ty, Quan chức, Lệ thi cử.

   Thành Phú-xuân là dinh chính của họ Nguyễn. Chức quan trọng nhất có Tứ Trụ Quan (bốn cột cái) là : Nội tả, Nội hữu, Ngoại tả, Ngoại hữu đều là nguời trong công tộc và các tướng có công mới được dự vào 4 chức ấy. Có chức Đô-tri, chức Ký-lục (đều một viên) đứng đầu Xá sai ty, một Cai-bạ đứng đầu Tuớng thần lại ty, một Nha-úy đứng đầu Lệnh sứ ty. Ba ty ấy gọi là Tam-ty. Ty Xá-sai có 3 câu-kê, 7 cai-hợp, 10 thủ-hợp, 40 ty-lại giữ việc từ tụng văn án. Tướng-thần lại-ty và số người cũng như thế giữ việc thu tiền sai dư và thóc điền tô của các huyên ở Thuận-hóa, phát lương tháng cho quân thủy, quân bộ đạo lưu đồn, dinh Quảng-bình, dinh Bố-chính, phát tiền cho quân và cấp cho lính các xã cùng cấp ngụ lộc và vi-tử. Ty Bản-nha lệnh-sứ số người cũng thế, giữ lễ tiết các từ-đường, phát lương tháng cho quân ở dinh, thu tiền sai-dư và thóc điền tô của huyện Phú-vinh và trông coi các ruộng công. Lại có ty Nội-lệnh-sứ gồm trông nom các thứ thuế, chia ra làm tả hữu hai ban có Câu-kê 3 tên, Cai hợp 7 tên, Thủ-hợp 10 tên, Bản-tu lại 40 tên. Các ty thuế coi giữ tiền thuế ở hai xứ Thuận, Quảng, Tả hữu nhị- biên-ty giữ việc ngày giỗ ngày tết của các từ-đường và chia nhau thu khoản tiền sai-du của các xã thuộc hai xứ để nộp vào nội phủ. Tả ban lại kiêm việc coi điền trang. Lại có ty Lệnh-sử coi dụng cụ ở nhà đồ, có 3 câu-kê, 3 cai-hợp, 3 thủ-hợp và 24 nguời Bản-tu-lại thu và phát giây thau, khối sắt, đồ đồng, ngà voi, chiêng đồng đưa giao các cục và tu sửa khí giới, thuyền tàu, xây nhà cửa và giữ dầu thắp, son, than, củi, vàng mạ và khí cụ để dùng vào việc quân nhu.

  Đoan-quốc-công Nguyễn-Hoàng nguyên trước đóng ở dinh Cát, sau rời đi nơi khác, sai quan trấn thủ nơi ấy gọi là dinh cũ ở xã Ái-tử, huyện  Đăng-xương. Dinh ấy chỉ có một ty lệnh sử câu-kê, cai-hợp đều một tên, thủ-hợp một tên, ban-ty-lại  hai mươi tên, giữ sổ từ tụng, văn án, hộ khẩu và binh xuất. Có một viên ký-luc và một viên thư-ký cai quản tất cả mọi việc trên và thu điền tô hai huyện Hải-lăng, Đăng-xương, khám hỏi từ tụng ở hai huyện ấy. Lại khiến một viên tướng khác trấn thủ ở dinh Trạm, gọi là dinh Quảng-bình ở xã An-trạch, huyện Lệ-thủy thuộc vào dinh ấy có ty Xá-sai, có câu-kê một tên, cai-hợp hai tên, thủ-hợp ba tên, Bản-ty-lai ba mươi người. Lại có ty Tướng-thần-lại và ty Lệnh-sứ. Khiến một viên tướng nữa trấn thủ ở dinh Mười gọi là đạo Lưu-đồn ở xã Vu-xá, huyện Khang-lộc. Tướng trấn thủ ở dinh Ngói gọi là dinh Bố-chính ở xã Thổ-ngõa, huyện Khang-lộc, thuộc vào dinh ấy  ó ty Xá-sai và ty Lệnh-sứ, số nhân viên cũng như trên, giữ việc kiện cáo, văn án, hộ khẩu và số binh lính. Mỗi ty đều có một viên Ký-lục cai quản tất cả mọi việc trên. Hai ty ấy chia thu điền tô các huyện Minh-linh, Khang-lộc, Lệ-thủy và châu Bố-chánh, khám hỏi việc từ tụng của binh và dân. Xứ Quảng-nam có dinh Chiêm, có quan trấn thủ gọi là dinh Quảng-nam ở xã Cần-hào về huyện Duy-xuyên, thuộc về dinh ấy có ty Xá-sai, có câu-kê 3 tên, cai-hợp 7 tên, thủ-hợp 10 tên, Bản-ty lại có 40 tên giữ việc từ tụng, văn án, có một quan Ký-lục cai quản tất cả các việc trên. Lại có một ty Tướng-thần-lại số nhân viên cũng ngần ấy, giữ việc cấp lính các xã, cấp ngụ lộc cho vi tử, thu và phát tiền sai dư thóc điền tô, có một quan Cai-bạ cai quản tất cả mọi việc ấy. Dinh Bình-khang về huyện Quảng-phúc, có Ký-luc, Tri-bạ, Cai-án là ba chức quan đầu hạt, còn thuộc viên thì có ty Xá-sai. Ty ấy có câu-kê môt viên, cai-hợp hai tên, thủ hợp ba tên, Bản-ty-lại hai mươi tên, ty Tướng-thần-lại số nhân viên cũng ngần ấy. Dinh Bình-thuận ở huyện Phúc-an có quan Ký-lục, quan Cai-án đứng đầu, thuộc viên có ty Xá-sai, có câu-kê một tên, Tu-lại hai mươi tên và ty Tướng-thần-lại có 12 tên câu-kê. Dinh Phiên-trấn ở huyện Tân-bình phủ Gia-định có quan Ký-lục, Cai-án, Tri-bạ đứng đầu, thuộc viên là ty Tướng-thần-lại có hai câu-kê, ba cai-hợp, bảy thủ-hợp và muời tu lại. Dinh Trấn-biên ở huyện Phúc-long, phủ Gia-định có một  Ký-lục, một  Cai-án, một Tri-bạ đứng đầu, đặt ty Xá-sai có một cai-hợp, hai Bản-ty-lại và ty Tướng-thần-lại, có một câu-kê, hai cai-hợp, hai thủ-hợp và mười Bản-ty-lại. Dinh  Long-hồ có môt Ký-lục, một Cai-án, một Tri-bạ đứng đầu, dưới quyền có ty Xá-sai, ty Tướng-thần-lại số nhân viên và chức việc cũng như trên. Cứ sáu năm thì mở trường thi Hoa-văn, lấy số hoc trò trúng tuyển độ bốn mươi hay năm mươi tên để bổ vào ba dinh chính và ty nội lệnh sự. Nếu bốn ty ấy có khuyết chân thì cũng có khi cho nguời ta nộp tiền lệ mà điền bổ vào. Còn các dinh khác thì tùy quan trên nhậm tự ý chọn người mà bổ dùng.

  Về đời nhà Trần, trong nước chia làm 24 lộ, Minh-tôn có nói : "đâu lại một nước nhớn như cái bàn tay mà đặt quan chức nhiều như thế !" Quảng, Thuận chỉ có hai trấn mà thôi, họ Nguyễn đặt quan lại, thuộc viên và hương trưởng kể có hàng nghìn người, nhũng lạm quá lắm, hết thảy bổng lộc những viên chức ấy đều lấy vào của dân, dân chịu sao nổi. Ngoài ra lại còn có các chức ở các phủ, huyện thuộc như sau : tri phủ xem xét giấy tờ kiện cáo ở bản huyện, huấn đạo và phủ lễ-sinh theo bản phủ trông coi việc tế lễ Văn-thánh-miếu và các linh-từ; phủ đề-lại, huyện đề-lại giúp đỡ các quan phủ huyện trong các việc văn án, từ tụng ở bản phủ, bản huyện; phủ thông-lại, huyện thông-lại theo quan tri-phủ, tri huyện tra hỏi mọi việc từ tụng, các quan chức ấy có ngach nhất định không kể làm gì. Lại còn đặt chức Bản-đường-quan đốc áp các phủ, huyện khoản tiền sai dư và thóc điền tô. Có đề-đốc, phó đề-đốc, có đề-lĩnh, phó đề-lĩnh, phủ ký-lục xem xét sổ sách bản phủ, ký-phủ, thu-ký cũng dự xét sổ sách bản phủ, có cai-phủ, cai-tri đốc áp sai dư, điền tô và sưu dịch, có huyện thư-ký trông coi sổ sách bản huyện và đốc áp sai dư, điền tô và sưu dịch, có cai-tổng đốc áp sưu dịch bản tổng, có Duyên-lại áp thối sưu dịch bản huyện. Bảo-thái năm thứ 6 (1725) họ Nguyễn mới định lại chức quan Bản-đường để đỡ cái tệ nhiều quan làm nhiễu dân.

  Xứ Thuận-hóa, mỗi một phủ, huyện, châu đặt đề-đốc, đề-linh, phủ ký-lục, phủ thư-ký đều một viên, cai-tri ba viên, huyện thư-ký ba viên, duyện-lại bốn người, mỗi tổng cai-tổng ba người, mỗi thuộc và tổng Bái-giời cai-thuộc một người, cai-tổng một người, duyên-lại một người.

  Xứ Quảng-nam, mỗi phủ đặt chánh-hộ, khâm-lý, đề-đốc, đề-lĩnh, phủ ký-lục, cai-phủ,  phủ thư-ký đều một viên, mỗi huyện Cai-trị một viên, huyện thư-ký, duyện-lại một viên, mỗi tổng đặt cai-tổng ba người, các thuộc mỗi thuộc đặt đề-lĩnh, cai-thuộc đều một viên, ký-thuộc hai viên, cai-tổng hai người, duyên-lại hai người. Còn chức đề-lĩnh chỉ có Hoa-châu, Phú-châu, Khiêm-hộ, Võng-nhi, Hà-bá, 5 thuộc có chức ấy. Còn các thuộc khác bỏ đi không đặt chức ấy. Bảo-thái năm thứ bảy ở các phủ Quảng-nam mới chỉnh đốn lại các chức ở các thuộc Thăng-hoa 15 thuộc, phường Điện-bàn 4 thuộc, Quảng-nghĩa 4 thuộc, Quy-nhân 10 thuộc, Phú-an 28 thuộc, Bình-khang 12 thuộc, Duyên-khánh 14 thuộc và nậu, Bình-thuận 20 thuộc và phường. Định từ 500 nguời trở lên đặt Cai-thuộc, Ký-thuộc đều một nguời, 450 người trở lên đặt Ký-thuộc một nguời, từ 10 cho đến 100 nguời chỉ đặt Tướng-thần như lệ ở các nậu. Nếu Tướng-thần không có người nào làm đơn xin thì cho trong thuộc bầu ra. Không tính hai xứ quan bản đường chánh ngạch đã nhiều, số đặt thừa cũng lắm và số Tướng-thần, xã-trưởng bội gấp nhiều quá, không thể nào tính hết được. Nhưng khi làm sổ hộ tịch và kê số đinh xuất thì số Ký-luc, duyện-lại kê ra không dấu diếm, biết rõ được sự thực, vì lấy dân tra xét dân, có sổ quân cấp công điền và sổ sai dư, sổ cước mễ làm bằng cớ, không ai chịu lậu tên để mất khẩu phần, không ai dám dấu nhân đinh để lấy tiền gạo. Cho nên từ trước họ Nguyễn không sai huyện quan làm việc ấy, chỉ tra hỏi những người kỳ mục ở trong  huyện. Cách hành chánh như thế cũng tốt đẹp. Việc hành chính tốt nhất là biết rõ số dân nhiều ít, số ruộng tốt xấu để đặt phú dịch và gọi quân lính, chỉ không nên hà khắc  phiền nhiễu và trưng thu quá nặng nề. Có nguời cẩu thả thường nói không cần tra xét một cách quá kỹ càng, ý muốn khoan cho dân, nhưng không biết rằng cách sơ lược ấy chính là gây nên cái tính tệ ăn của đút và ẩn lậu, vả lại khiến cho kẻ có tiền được nhẹ, kẻ không có tiền phải chịu phần thiệt hại, không phải lẽ công bằng vậy.

0