02/08/2018, 22:42

Phù Dung Lâu – Kiến trúc lịch sử và lịch sử bài thơ

Lầu Phù Dung ở Hồ Nam (về bài thơ Phù Dung Lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh) Nguyễn Thị Mai Chanh – Lê Thời Tân Trung Quốc hiện có hai di tích lịch sử đều có tên gọi Phù Dung Lâu, một ở Trấn Giang tỉnh Giang Tô (江蘇鎮江芙蓉樓) và một ở tỉnh Hồng Giang tỉnh Hồ Nam ...

“楚南上游第一勝跡.png

Lầu Phù Dung ở Hồ Nam

 (về bài thơ Phù Dung Lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh)

Nguyễn Thị Mai Chanh – Lê Thời Tân

Trung Quốc hiện có hai di tích lịch sử đều có tên gọi Phù Dung Lâu, một ở Trấn Giang tỉnh Giang Tô (江蘇鎮江芙蓉樓) và một ở tỉnh Hồng Giang tỉnh Hồ Nam (湖南洪江芙蓉樓). Phù Dung Lâu Giang Tô nguyên được xây dựng trên núi Nguyệt Hoa Sơn. Tòa lầu do Vương Cống – một viên quan Thứ sử đời Tấn khởi dựng. Sử chép vào đời Đường lầu này vẫn còn nguyên vẹn. Lầu được xây mới và mở rộng vào thời hiện đại. Nhà thủy tạ Băng Tâm và đình Cúc Nguyệt  bên hồ đều là kiến trúc mới.  Biển ba chữ Phù Dung Lâu trên tầng hai ngôi lầu cũng là chữ mới đề của cựu tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc Giang Trạch Dân.

Chưa biết đích xác Vương Xương Linh (王昌齡 ) tiễn Tân Tiệm quay về Đông Đô Lạc Dương tại lầu Phù Dung nào. Lầu Phù Dung ở Trấn Giang (Giang Tô) hay lầu Phù Dung ở Cộng Giang (Hồ Nam)? Trong lúc chờ có được câu trả lời sau cùng của khảo cứu, cả hai ngôi lầu vẫn không ngừng chia sẻ niềm vinh quang đến từ bài tứ tuyệt bất hủ của Vương Xương Linh suốt hơn nghìn năm nay:  

芙蓉樓送辛漸

寒雨連江夜入吳,平明送客楚山孤。
洛陽親友如相問,一片冰心在玉壺。

 Phiên âm:

 

Phù Dung lâu tống Tân Tiệm

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,

Bình minh tống khách Sở sơn cô.

Lạc Dương thân hữu như tương vấn,

Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Dịch nghĩa:

Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm

Trên sông mưa lạnh giăng kín trời, khách vào đất Ngô[1] khi đã đêm,

Sáng mai tiễn khách về, trơ trọi lại núi non nước Sở.[2]

Bạn bè ở đô thành Lạc Dương nếu có hỏi thăm đến tôi,

Bạn hãy nói tôi ở đây vẫn một tấm lòng như mảnh băng trong bình ngọc.[3]

Dịch thơ:

Mưa lạnh mù trời đêm đến Ngô,

Sáng mai tiễn khách lại đơn cô.

Kinh thành bạn cũ ai mà hỏi,

Một tấm băng tâm chẳng phai mờ.

          Đoàn Lê Giang dịch

Học giả có người cho rằng bài tống biệt này được viết vào khoảng thời gian Vương được bổ về làm Giang Ninh Thừa (Giang Ninh tức Nam Kinh ngày nay) sau một dạo bị biếm xuống Lĩnh Nam. Một số nhà nghiên cứu đoán chừng Vương tiễn bạn Tân Tiệm từ Giang Ninh lên đến Trấn Giang và chia tay với bạn ở lầu Phù Dung bên bờ Trường Giang. Đường Tài Tử Truyện (《唐才子傳》) cũng như Hà Nhạc Tinh Linh Tập (《河岳英靈集》) chép chuyện Vương cuối đời không chú trọng lễ tiết nên có nhiều điều tiếng. Kết quả hai lần bị biếm ra làm quan miền biên viễn. Cứ như khẩu khí trong bài thơ – nhắn với bạn bè ở Kinh Đô rằng mình vẫn một tấm lòng thanh cao như mảnh băng trong bình ngọc thì có thể  đoán Vương làm bài thơ này khi bị biếm lên làm quan ở Long Tiêu chứ không thể là lúc được gọi về làm quan ở Giang Ninh – một nơi  đô hội phồn hoa được. Thành ra căn cứ vào các chi tiết miêu tả trong bài thơ cũng như tư liệu tiểu sử thi nhân, phần đa đều thiên về cho rằng Lầu Phù Dung ở Hồ Nam mới đúng là nơi thi nhân Thịnh Đường Vương Xương Linh tiễn bạn rời núi Sở sông Ngô quay về Lạc Dương một sáng xuân xưa.

  Phù Dung Lầu Hồ Nam nằm bên bờ sông Vũ Thuỷ đoạn chảy qua Kiềm Giang Trấn, thành phố Hồng Giang – vùng đất gặp nhau của hai con sông lớn ở Hồ Nam. Lầu kề sông liền rừng, được xem là “Sở Nam thượng du đệ nhất thắng tích” (“楚南上游第一勝跡”, di tích-danh thắng đệ nhất của miền Sở Nam). Phù Dung Lâu Hồ Nam cũng được xem là một trong bốn ngôi lầu nổi tiếng của miền Giang Nam (Giang Nam tứ đại danh lâu).[4] Tương truyền Vương Xương Linh sau khi bị biếm ra làm Long Tiêu Úy (龍標尉)[5] đã cho dựng Phù Dung Lâu làm nơi thưởng nguyệt vịnh thơ đón tiễn bạn bè qua lại. Trải qua bao xuân thu người đi lầu hoang phế dần. Các đợt trùng tu lầu chính, xây cất tôn tạo thêm các công trình khác làm thành một quần thể thắng cảnh dưới chủ đề văn hóa-lịch sử mà chúng tôi tạm khái quát là “Nhắn tiễn bạn bên lầu Phù Dung” chủ yếu được thực hiện trong suốt triều đại Thanh từ suốt đời Càn Long cho đến đời Đạo Quang (có ghi trong Đại Thanh nhất thống chí) đến tận thời Dân Quốc. Năm thứ 4 niên hiệu Càn Long (1775) tri huyện Kiềm Dương Diệp Sở Lân khởi sự dựng lại ngôi lầu Phù Dung lưu danh cả ngàn năm chỉ nhờ một bài thơ 28 chữ. Sau đó các đợt tôn tạo di tích thắng cảnh tiếp theo phần đa đều được khởi xướng bởi các đời tri huyện huyện Kiềm Dương sở tại. Đương nhiên còn phải kể đến công việc tôn tạo nằm trong quy hoạch hồ sơ di tích thắng cảnh phục vụ du lịch hiện nay của Trung Quốc thời mở cửa.

Di tích Phù Dung Lâu Hồ Nam được mở rộng lên đến quy mô hoàn chỉnh nhất, phát huy và triển thị – hoặc nói vật chất hoá các ý cảnh trong bài thơ của Vương Xương Linh đến mức rõ ràng nhất; kết hợp kiến trúc, thơ ca, truyền thuyết, lịch sử, văn tự, điêu khắc vào trong một chỉnh thể kí ức văn hoá chính là nhờ đợt trùng  tu của cha con tri huyện Long Quang Điện năm 1839 (Thanh Đạo Quang thập cửu niên). Diện mạo hiện tại của di tích này giữ nguyên các nét kiến trúc nhân đợt trùng tu này. Long Quang Điện cùng con là trạng nguyên Long Khởi Thuỵ và giáo dụ Hoàng Bản Kí xây thêm hành lang phía Nam lầu Phù Dung. Hoàng Bản Kí sưu tập các tác phẩm thư pháp danh tiếng khắc tạc lên bia, bức vách bài trí cho hành lang này. Tại đây khách tham quan có thể thưởng thức hơn 80 bức khắc đá thơ phú nhiều đời cùng bút tích của các danh văn nhân như Hoàng Đình Kiên, Nghiêm Chân Khanh (Đường), Nhạc Phi, Mễ Phất (Tống)… Trong hành lang này đương nhiên còn có bản khắc Vương Thiếu Bá hoạn Sở thi (《王昌齡宦楚詩》). Đây chính là một biên tuyển nhỏ 29 bài thơ Vương Xương Linh viết trong thời kì làm quan ở Long Tiêu (thuộc đất Sở, tức Kiềm Dương thời Thanh) mà các tác giả của cuộc trùng tu lầu Phù Dung biên tập ra từ đại tổng tập thi ca nổi tiếng Toàn Đường Thi. Cũng chính Long Quang Điện là người đã viết lời bạt cho tập biên tuyển nhỏ thơ Vương Xương Linh này. Tất cả đã được khắc lên đá và trình bày trong hành lang ngôi lầu. Hai năm sau (1841), Long Khởi Thuỵ khi đó đã là Bố chính sử Giang Tây lại trình bày 7 chữ “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ ” (câu cuối bài thơ Vương Xương Linh) thành một tác phẩm điêu khắc đá đặt giữa ngôi đình bên cạnh ao lớn sau lầu Phù Dung. Rời xa ngôi lầu chính nhằm hướng bắc là đến bãi Mai Hoa Thạch gần sông. Trên bãi đá vân hoa mai này có dựng một ngôi đình tiễn khách. Lối nhỏ dẫn từ ngôi đình tiễn khách Tống Khách Đình nép mình dưới cổ thụ xuyên qua hoa cỏ xuống bến thuyền bên sông Vũ Thuỷ. Sông rộng nhưng cũng không đủ để làm nhạt đi hương của rừng bưởi đối ngạn theo gió xuân thổi sang. Có lẽ đây là chỗ cuối phải dừng bước trong cuộc đưa chân người bạn thân Tân Tiệm mà Vương Xương Linh miêu tả trong một bài thơ nữa nhan đề Biệt Tân Tiệm:

Biệt quán tiêu điều phong vũ hàn,

Biến chu nguyệt sắc độ giang khan.

Tửu hàm bất thức quan san đạo,

Khước vọng xuân giang vân thượng tàn

Nguyên văn:

别辛漸

别館蕭條風雨寒,

扁舟月色渡江看。

酒酣不識關西道,

卻望春江雲尚殘。

Diễn nghĩa:

Đưa tiễn bạn bên gian quán nhỏ tiêu điều gió mưa. Nhìn ra con thuyền mỏng qua sông trong bóng trăng. Rượu say không nhớ đường Quan Tây, Lại muốn mây mù trên sông xuân hãy đừng tan.

Dịch thơ:

Giã bạn mưa phùn quán xác xơ,

Ngoài kia thuyền mỏng dưới trăng mờ.

Rượu say chẳng nhớ đường đi khó,

Thầm ước sông xuân chẳng ngớt mưa.

Đoàn Lê Giang dịch

Toàn bộ quần thể thắng cảnh Phù Dung lâu nằm giữa bốn bề rừng trúc. Lên lầu có thể dõi tầm nhìn vào trùng điệp núi non; nhìn gần có thể thấy sông lớn từ phía Bắc chảy xuống lượn vòng quanh lầu. Lầu ở cạnh sông, gác hai có hiên ngắm cảnh xa. Quanh lầu có đình Băng Tâm Hồ, Lầu Sủng Thúy, đình Bán Nguyệt. Trên lầu chính treo đôi câu đối “樓上題詩,石壁尚留名士跡;江頭送客,冰殼如見故人心” Lâu thượng đề thi, thạch bích thượng lưu danh sĩ tích; Giang đầu tống khách, băng xác như kiến cố nhân tâm” (Trên lầu đề thơ, vách đá còn lưu tích danh sĩ; Bến sông tiễn khách, mảnh băng như thấy lòng cố nhân). Ao lớn sau hồ có tên Phù Dung Trì. Sau ao là Bán Nguyệt Đình, một bên là Sủng Thúy Lâu vươn lên trên tán xanh của cây vườn, một bên là Ngọc Hồ Đình thấp thoáng dưới bóng cây ngô đồng cổ thụ. Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 14, Trương Kì Hùng – huyện trưởng Kiềm Dương lại cho duy tu di tích. Viên huyện trưởng sau đó đã đem di tích này vào trong văn xuôi bằng bài Phù Dung Lâu Kí.

Sang thời Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, di tích Phù Dung lâu được đưa vào quy hoạch di tích văn hoá hàng đầu của tỉnh Hồ Nam. Cho đến lúc Trung Quốc cải cách mở cửa, di tích này lại được duy tu mở rộng hơn nữa và hiện đã trở thành điểm du lịch cấp quốc gia. Nước Trung Quốc thời đổi mới đã tô điểm cho di tích này thêm gian triễn lãm các tác phẩm điêu khắc gốc cây (căn điêu) mở trên góc vườn tây khuôn viên lầu Phù Dung và một quả chuông sắt lớn nhất Giang Nam niên đại Thanh Đạo Quang thập tam niên (1833). Trung tâm của nhà trưng bày này là trọn bộ gốc cây long não nghìn năm tuổi đường kính gần 2 mét, nặng gần 1 tấn thể hiện bằng hình khắc hàng chục truyền thuyết và điển cố lịch sử. Trên gốc cây này còn khắc tạc hơn một trăm nhân vật lịch sử cùng hình ảnh của các loài. Chính thức từ năm 1985, Trung Quốc đã mở cửa quần thể di tích này để đón khách du lịch trong ngoài nước. Ngôi lầu đã trở thành nơi đón tiễn đông đảo hàng trăm ngàn du khách bất cứ thời gian nào trong năm chứ không nhất định chỉ là một lần đón người bạn đến giữa đêm mưa mịt mờ trên sông và tiễn người đi một sáng mai núi xa cô lặng bên trời như đôi bạn thơ thời đại Đường xưa kia nữa. Hàng thế kỉ đã trôi qua, một thi phẩm đã đưa cả một kiến trúc đi vào lịch sử. Trong lúc cuộc kết hợp giữa tâm hồn kí ức thi ca với dấu xưa tích cũ giữa non sông cũng chính là phần quan trọng kiến trúc nên lịch sử. Ấy cũng là câu chuyện văn chương điểm tô cho sông núi và sông núi ghi dấu cho văn chương vậy! Thanh thủy xuất phù dung[6] – những tâm hồn trong trẻo như phiến băng trong bình ngọc mãi là nơi soi bóng cho những đóa phù dung diễm lệ của thi ca.

Chú thích:

[1] Ngô: Thời Tam Quốc miền hạ lưu Trường Giang thuộc Ngô Quốc. Về sau sử sách hay gọi vùng này là Ngô.

[2] Sở: Sở Quốc thời Xuân Thu thuộc miền đất trung-hạ lưu Trường Giang. Sử thường hay gọi núi Sở sông Ngô chỉ chung một giải trung hạ lưu Trường Giang.

[3] Mảnh băng bình ngọc: Ngụ ý tiết tháo, chính trực liêm khiết, tấm lòng thuần khiết, trong sáng, không nhiễm tạp dục… Từ thời Lục Triều, thi nhân Bão Chiếu trong tác phẩm Đại bạch đầu ngâm đã dùng ý tượng “trong suốt như băng trong bình ngọc” (thanh như ngọc hồ băng) để ngụ phẩm cách cao khiết trong sáng của tâm hồn người thơ. Dưới thời Đường Khai Nguyên, tể tướng Diêu Sùng có viết Băng hồ giới. Các nhà thơ Thịnh Đường như Vương Duy, Thôi Dĩnh, Lý Bạch đều từng dùng hình tượng này trong thơ theo hướng ẩn dụ cho phẩm cách cao thượng, quang minh, không tì vết.  Ông ngoại Nguyễn Trãi cũng dùng chữ Băng Hồ làm bút hiệu. Người viết bài này cũng thấy ở làng Đường Lâm (Sơn Tây) có giếng cổ đề mấy chữ “Nhất phiến băng tâm”. Chắc cũng là chữ đề của một nhà nho yêu Đường thi nào đó!

[4] 江南四大名樓 bao gồm 江西滕王閣, 武漢黃鶴樓, 湖南嶽陽樓, 湖南新洪 江芙蓉樓. Một vài tên gọi trong đó như Đằng Vương Các hay Hoàng Hạc Lâu đã khá quen thuộc với văn thi nhân Việt Nam nhờ sự phổ biến của tích chuyện Vương Bột với bài Đằng Vương Tự (滕王閣序giai cú “Lạc hà dữ cô lộ tề phi, Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色。”) và thi phẩm Hoàng Hạc Lâu 黃鶴樓 của Thôi Hiệu.

[5] Long Tiêu chính là huyện Kiềm Dương (黔陽縣) ngày nay; 龍標尉 tương đương tri huyện Kiềm Dương. Vương bị biếm ra Long Tiêu nhằm năm 748 (năm thứ bảy niên hiệu Thiên Bảo). Lý Bạch hoài niệm chuyện đó trong bài《閻王昌齡左遷龍標遙有此寄》

 楊花落盡子規啼,聞道龍標過五溪。我寄愁心於明月,隨風直到夜郎西。

Phiên âm: “Dương hoa lạc tận tử quy đề, Văn đạo Long Tiêu quá ngũ khê; Ngã kí sầu tâm dữ minh nguyệt, Tùy phong trực đáo Dạ Lang Tây” .

[6] Thơ Lí Bạch: “清水出芙蓉,天然去雕飾”  Thanh thủy xuất phù dung, Thiên nhiên khứ điêu sức. Cụm từ  “thanh thủy xuất phù dung”  đã trở thành ngạn ngữ trong tiếng Hán.

0