10/01/2018, 19:25

Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9 – 1939 đến tháng 3 – 1945

Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9 – 1939 đến tháng 3 – 1945 1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 - 1939 Tháng 11 - 1939, Hội nghị Ban chấp ...

Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9 – 1939 đến tháng 3 – 1945

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 - 1939
Tháng 11 - 1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng triệu tập tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định) do Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư chủ trì.
- Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và bọn tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
- Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi của dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu Chính quyền Dân chủ cộng hoà.
- Về phương pháp đấu tranh, Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
- Đảng chủ chương thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 - 1939 đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng - đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu nước.
 
2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới
* Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27 - 9 - 1940)
Mặc dù thực dân Pháp đã nhượng bộ mọi yêu sách, Nhật vẫn thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đông Dương.
- Ngày 22 - 9 - 1940, quân Nhật vượt qua biên giới Việt - Trung, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn
- Ở Lạng Sơn, quân Pháp bị tổn thất nặng nề. Số lớn quân Pháp đầu hàng, số còn lại rút chạy về Thái Nguyên qua đường Bắc Sơn.
- Đêm 27 - 9 - 1940, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy đánh quân Pháp, chiếm đồn Mỏ Nhài. Ngụy quyền ở Bắc Sơn tan rã. Nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
- Tuy Pháp và Nhật mâu thuẫn với nhau, nhưng đều hoảng sợ trước lực lượng cách mạng, đã nhanh chóng cấu kết lại. Mấy hôm sau Nhật thả tù binh Pháp và cho quân Pháp trở lại đóng các đồn bốt ở Lạng Sơn. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố phong trào cách mạng Bắc Sơn. Chúng đốt phá làng bản, dồn làng, tập trung dân, bắt giết những người tham gia khởi nghĩa.
 
- Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Bắc Sơn:
+ Nó mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sau khi có chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng.
+ Khởi nghĩa Bắc Sơn giúp Đảng ta rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ, quyết tâm giành thắng lợi.
 
* Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 - 11 - 1940)
- Tháng 11 - 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Xiêm (Thái Lan). Chính quyền thực dân Pháp bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kì và binh lính đấu tranh không đưa lính ra mặt trận.
- Trong bối cảnh đó, Xứ ủy Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa và cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương.
- Từ ngày 06 đến 09 - 11 - 1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh), đề ra chủ trương trong tình hình mới. Hội nghị quyết định đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kì vì thời cơ chưa chín muồi.
- Người mang chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kì của Trung ương Đảng khi về đến Sài Gòn thì bị địch bắt. Lệnh khởi nghĩa Xứ ủy đã đến tận địa phương, nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời gian quy định là đêm rạng sáng 23 - 11 - 1940.
- Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ; Biên Hoà, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vĩnh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng đã thành lập ở nhiều nơi. Từ trong khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng.
- Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp đã kip thời đối phó. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, bắt nhiều người.
- Lực lượng nghĩa quân còn lại phải rút về Đồng Tháp và u Minh để củng cố lực lượng.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, sẵn sàng đứng lên chiếu đấu chống quân thù.
 
* Cuộc binh biến Đô Lương (13 - 1 - 941)
Trong khi thực dân Pháp khủng bố dữ dội những người tham gia khởi nghĩa Nam Kì, tại miền Trung những binh lính người Việt trong quân đội Pháp đã làm binh biến, chống lại việc Pháp đưa binh lính người Việt sang Lào đánh nhau với quân Thái Lan.
- Ngày 13 - 01 - 1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đã đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ô tô tiến về Vinh để phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được. Quân Pháp đã kịp thời đối phó. Hôm sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt. Ngày 11 - 02 - 1941, Đội Cung bị sa vào tay giặc.
- Ngày 24 - 4 - 1941, thực dân Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí của ông. Nhiều người khác bị kết án khổ sai đưa đi đày.
* Kết luận: Trong thời gian 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy liên tiếp nổ ra ở 3 miền đất nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia đã nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đã thất bại vì điều kiện chưa chín muồi, nhưng “Đó là những tiến súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lục của các dân tộc Đông Dương”.
 
3. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp lãnh dạo cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5 - 1941)
- Ngày 28 - 01 - 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian chuẩn bị, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) từ ngày 10 đến 19-5- 1941.
- Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.
- Hội nghị tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm thuế, chia lại ruộng đất công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng.
- Hội nghị chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân. Thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
- Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh: chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh được đề ra từ hội nghị Trung ương tháng 6 - 11 - 1939, nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy.
- Ngày 19 - 5 - 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Năm tháng sau, Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ việt Minh công bố chính thức. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ.
 
4. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
a. Xây dựng lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang
- Xây dựng lực lượng chính trị:
+ Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các Hội cứu quốc trong mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có hội cứu quốc, trong đó có ba châu “hoàn toàn”. Tiếp đó, ủy ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và ủy ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng được thành lập.
+ Ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung, ở Hà Nội, Hải Phòng hầu hết các “Hội phản đế” chuyển thành “Hội Cứu quốc” đồng thời nhiều hội cứu quốc mới được thành lập.
+ Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương Văn hoá Việt Nam , vận động thành lập Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam và Đảng dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh. Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chông phát xít.
- Xây dựng lực lượng vũ trang:
+ Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, một bộ phận lực lượng khởi nghĩa vũ trang chuyển sang xây dựng thành những đội du kích hoạt động ở những cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai.
+ Bước sang năm 1941, những đội du kích Bắc Sơn lớn mạnh lên và thống nhất lại thành Trung đội cứu quốc quân I (14 - 02 - 1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7 - 1941 đến tháng 02 - 1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15 - 9 - 1941, Trung đội cứu quốc II ra đời.
- Xây dựng căn cứ địa:
+ Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng cũng được Đảng quan tâm. Vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng.
+ Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển. Đó là hai trung tâm căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta.
 
b. Gấp rút chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
- Từ đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến có lợi cho cách mạng. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân Đức, sự thất bại của chủ nghĩa phát xít đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
- Từ ngày 25 đến 28 - 02 - 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh - Phúc Yên). Hội nghị đã vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
- Tại các tỉnh vùng núi phía Bắc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra khẩn trương. Ở căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội cứu quốc III ra đời (25 - 02 - 1944). Ở căn cứ Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
- Ngày 07 - 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “Sửa soạn khởi nghĩa” và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”.
- Ngày 22 - 12 - 1944, theo lệnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân dược thành lập. Sau khi ra đời, đội đã đánh thắng liên tiếp ở hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao - Bắc - Lạng được củng cố và mở rộng.
Công cuộc chuẩn bị vẫn tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa.
0