13/01/2018, 10:56

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Văn hay lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Văn hay lớp 7 Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn thành phố Cần Thơ Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà huyện thanh quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi ...

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Văn hay lớp 7

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Bài làm số 1 của một bạn học sinh giỏi văn thành phố Cần Thơ

Qua đèo ngang  là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà huyện thanh quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân  đi qua đèo ngang là một địa danh  phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.

Mở đầu bài thơ là hai câu đề
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”

Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang,khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang  buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hòng sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.

“Cỏ cây chen là đá cheo hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.

Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá,lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vìa chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom”khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác,chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc,chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Nghe tiếng chim rừng mà tác gỉa thấy nhớ nước,nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ on là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó?Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.

“Dừng chân ngắm lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang,tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình  “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé  “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.

Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Bài làm số 2

Cùng với các nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm…, Bà Huyện Thanh Quan đã góp phần làm vinh dự cho nền văn học trung đại Việt Nam chúng ta. Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, nhưng là một tài danh hiếm có.

Tác phẩm của bà hiện còn lại sáu bài thơ Đường luật, trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng và rất quen thuộc với bạn đọc:

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú,

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,

Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.

Dừng chân dứng lại, trời, non, nước,

Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thuộc thể Đường luật thất ngôn bát cú (mỗi câu bảy tiếng, mỗi bài tám câu) với thanh điệu, vần điệu, bố cục, dối xứng rất hài hoà, tự nhiên, đúng niêm luật, đọc lên nghe xuôi tai, rất dễ thuộc, dễ nhớ. Lướt qua một lần từ câu chữ mở đầu đến kết thúc, chúng ta nhận ra bài thơ đẹp như một bức tranh vẽ lại một vùng non nước miền Trung đất Việt hùng vĩ, mà hoang sơ, gợi cảm. Câu mở đầu cho ta biết cảnh Đèo Ngang hiện lên vào lúc xế tà, nắng nhạt. Cảnh vật gồm: cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, vài chú tiều. Đường nét, màu sắc, chi tiết thưa thoáng, nhẹ nhàng, thanh đạm. Nét vẽ của nhà thơ chấm phá từ gần đến xa. Hoà với đường nét, văng vẳng vọng lại mấy âm thanh, tiếng kêu "nhớ nước" của chim cuốc, tiếng than "nhớ nhà" (muốn tìm về tổ) của chim đa đa.

Trong nghệ thuật kết cấu thơ, tác giả thật khéo dùng câu đối xứng "Lom khom dưới núi tiều vài chú" đối xứng với "Lác đác bên sông chợ mấy nhà", đường nét đối xứng với đường nét, hình ảnh cuộc sống con người đối xứng với nhau. "Nhớ nước đau lòng con quốc quốc" đối xứng với "Thương nhà mỏi miệng cái gia gia", âm thanh, loài vật đối xứng với nhau, hài hoà, cân đối.

Trong nghệ thuật dùng từ, tác giả chọn những từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gio gợi hình, gợi cảm, tác động vào sự suy ngẫm, liên tường của người đọc. Thêm nữa, trong cấu trúc câu, xuất hiện phép đảo ngữ tài tình. Ở câu ba, động từ lom khom đảo lên trước danh từ tiều vài chú, xuống câu bốn, tính từ lác đác đảo lên trước danh từ chợ mấy nhà. Nhờ đó, ấn tượng về dáng hình vất vả của người tiều phu, sự thưa thớt, quạnh hiu của lều chợ được nhấn mạnh như nét đậm trong bức tranh…

Có thể nói, sáu câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ở Đèo Ngang, núi đèo bát ngát, thấp thoáng có sự sống con người, nhưng còn hoang sơ. Cảnh được nhìn vào lúc chiểu tà, tác giả đang trong cảnh ngộ phải xa nhà, mang tâm trạng cô đơn, nên không gợi nên cảm giác vui, dẹp mà buồn và vắng lặng. Từ cảnh, toát ra tình cảm con người. Mỗi câu thơ đều có ý nghĩa biểu cảm, trĩu nặng hồn người. Đọc thơ, chúng ta hiểu tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan: buồn, cô đơn, hoài cổ. Tiếng chim quốc nhớ nước, tiếng chim đa đa (đọc trệch thành gia gia) thương nhà cũng chính là tiếng lòng thiết tha, da diết của tác giả nhớ gia đình, nhớ quá khứ của đất nước. Hai từ quốc quốc và gia gia vừa tả thực, nói về hai loại chim, vừa ẩn dụ, gợi liên tưởng tới quốc – gia, Tổ quốc và gia đình, nước và nhà đã và đang cất lên tiếng kêu, tiếng gọi tha thiết khiến lòng người không thể thờ ơ. Đến hai câu thơ cuối: Dừng chân đứng lại, trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta. thì "lòng người", tâm trạng Bà Huyện Thanh Quan được giãi bày trực tiếp. Đến đây, ngòi bút tả cảnh ngụ tình chuyển sang ngòi bút tâm trạng, thơ hướng nội, tâm tình. Đối mặt trước cảnh trời, non, nước bao la, hùng vĩ, nhà thơ cảm thấy mình như nhỏ bé hẳn lại, nỗi nhớ nhà, thương nước càng thêm da diết, thẳm sâu. Vậy mà không có ai, không tìm được ai để san sẻ, tâm tình, đành ta với ta, "Một mình mình biết, một mình mình hay" (Nguyễn Du – Truyện Kiều). Ở đây lại xuất hiện một đối lập nữa. Cảnh trời, non, nước, rộng lớn đối lập với một mảnh tình riêng nhỏ hẹp. Cảnh càng rộng lớn, hùng vĩ bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề, khép kín bấy nhiêu. Cụm từ ta với ta bộc lộ nỗi cô đơn gần như tuyệt đối của tác giả. Nhưng đây không phải là nỗi cô đơn tiêu cực, bi luỵ mà là tấm lòng đau đáu, thiết tha của nữ sĩ Thanh Quan đối với đất nước, đối với gia đình, đáng cảm thông và trân trọng.

Đọc Qua Đèo Ngang, chúng ta cảm nhận, bài thơ trang nhã, rất tiêu biểu cho thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan. Đèo Ngang hiện lên với cảnh thiên nhiên bát ngát, hùng vĩ, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng còn heo hút, hoang sơ, đủ gợi lên trong tâm hồn tác giả một nỗi nhớ nước, thương nhà, một nỗi buồn cô quạnh, não nề.

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Bài làm số 3

Trong số những nhà thơ nữ của thời kì trung đại, có thể nói Bà huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ mang lại cho em những cảm nhận sâu sắc nhất. bà thường viết thể thơ Đường luật là một trong những dạng thơ cần nhiều quy tắc cả về câu chữ, thanh âm. Ấy thế mà, những bài thơ của bà luôn luôn không những tuân thủ một cách chặt chẽ mà còn mang những ý nghĩa sâu sắc, đem lại cho người đọc rất nhiều những suy nghĩ, gợi hình. Và trong số những tác phẩm của bà, em ấn tượng nhất với bài thơ “ qua đèo Ngang” được tác giả viết khi đi tới Phú Xuân và dừng chân tại đèo Ngang- bài thơ thất ngôn bát cú đường luật khi ấy đã được ra đời.

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Mở đầu hai câu đề là hoàn cảnh của tác giả. Khi nữ thi sĩ bước tới nơi đây cũng đã là hoàng hôn, mọi thứ xuất hiện trước mắt bà là hình ảnh của tất cả cảnh vật như thấm đẫm trong đó sự trầm lắng, nhẹ nhàng. Bà nhìn xuống đất và phía trước mặt, ngay sát cạnh mình, đó toàn là hình ảnh của những nào cây, nào cỏ, nào hoa. Tất cả thiên nhiên của nơi đây đều là sự hoang sơ, tĩnh lặng và chưa có sự khai phá của con người. Thiên nhiên như hòa chung với xúc cảm của con người. tất cả hoa lá, cây cối nơi đây mọc lên rậm rạp, chen chúc lên nhau để kiếm tìm chút ánh sáng mặt trỏi.

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác trên song chợ mấy nhà

Tới  hai câu thực, lúc này, tầm mắt của tác giả đã phóng ra xa. Những hình ảnh hiện trong mắt của người nghệ sĩ lúc này chỉ còn lại là những chấm nhỏ. Đó là những hoạt động của con  người nơi đây. Thế nhưng, ở đây dân cư vẫn rất thưa thớt. Nghệ thuật đảo ngữ trong bài thơ lúc này lại càng làm cho sự đìu hiu, vắng lặng không gian của con người càng gia tăng. Tất cả những điều đó, như nhẹ nhàng mà đi sâu vào người đọc những hình ảnh của đèo Ngang lúc bấy giờ.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Điểm nhìn của tác giả đã thay đồi. Lúc này đây, nữ thi sĩ đã không cảm nhận thế giời quanh mình bằng đôi  mắt nữa mà bằng chính đôi tai, bằng những âm thanh xung quanh. Thế nhưng, những gì mà bà nghe thấy chỉ là những tiếng kêu “ quốc, quốc” của những con chim cuốc. Tiếng kêu của chúng như hằn sâu vào lòng người bởi chính sự sầu não, cô liêu. Trong hoàn cảnh hoàng hôn nơi hoang sơ, hung vĩ, tiếng kêu đau buồn, gợi lên nhiều kỉ niệm buồn ấy làm cho người đọc, người nghe có tâm trạng như chùng xuống, như khơi gợi lên về những điều suy nghĩ ở trong lòng. Và tác giả- người có mặt ngay tại nơi ấy cũng không còn là ngoại lệ.

Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

Sự tĩnh lặng của thiên nhiên, sự hung vĩ, bạt ngàn của nơi đây đã làm cho người nghệ sĩ dâng lên trong lòng rất nhiều những suy nghĩ. Bà nhớ về quê nhà, nhớ đất kinh kì với tâm trạng khắc khoải. Nỗi lòng của bà như được nâng lên, được nổi bật giữa cái to lớn của toàn vũ trụ.

Tóm lại, bài thơ Qua đèo ngang là bài thơ tả cảnh mang rất nhiều những ý nghĩa trong nó mà  qua đó, chúng ta cũng thấy được tình yêu quê hương đất nước của tác giả qua tác phẩm của bà.

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang – Bài làm số 4

Trên một trăm năm mươi năm trước, có thể trong dịp vào Huế nhận chức Cung trung giáo tập, chức nữ quan dạy học cho các cung nữ, Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tác bài Qua Đèo Ngang, một bài thơ hay, một bức tranh tâm trạng "nhớ nước", "thương nhà" độc đáo.

Bốn câu đầu bài thơ tả cảnh:
 
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
 Lom khom dưới núi tiều vài chú
 Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
 
Tác giả đến Đèo Ngang vào lúc chiều tà bóng xế, cảnh đẹp nhưng buồn. Ở đây, cỏ cây hoa lá chen chúc, xô bồ. Lối điệp từ (chen), điệp vần (lá, đá, hoa) gợi nét hỗn độn hoang vu của một vùng núi non hiểm trở. Bà đưa mắt nhìn xuống dưới núi, bên sông. Bóng dáng con người thấp thoáng nhỏ bé, thưa thớt lác đác, lom khom, tiều vài chú, chợ mấy nhà. Cảnh vật ấy đủ để nhà thơ cảm nhận một cách sâu lắng cái buồn vắng quạnh hiu của một chiều tà ở miền sơn cước.
 
Bốn câu sau bài thơ mượn cảnh tả tình, nói lên tâm sự của tác giả trước cảnh ấy.

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
 Một mảnh tình riêng ta với ta
 
Lúc chiều tà trên đèo vắng, tiếng cuốc kêu khắc khoải, tiếng đa đa vô hồi thắt quặn trong lòng nhà thơ càng gợi thêm nỗi niềm vời vợi nhớ thương. Bà nhớ nhà, nhớ quê, nhớ một thời vàng son nào đó đã qua trong một nỗi niềm cô quạnh buồn thương man mác của tâm hồn.
 
Khép lại bài thơ là hình ảnh bé nhỏ của nữ sĩ trước mặt là "trời non nước" vô tình như mở rộng ra đến vô tận. Chính vì vậy, bà cảm thấy cô đơn, quanh quẽ, đành quay về với chính mình, đối diện với chính mình “ta với ta” Hai chữ "ta" nhưng vẫn chỉ có “một mảnh tình riêng” nghĩa là vẫn chỉ có một người. Điều này đủ thể hiện nỗi cô đơn cùng cực của nữ sĩ khi ấy.
 
Về mặt nghệ thuật, Qua Đèo Ngang thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật, một thể thơ vốn kiểu cách, sang trọng. Thế nhưng, với ngòi bút tài hoa điêu luyện của tác giả, bài thơ có ngôn ngữ giản dị, trong sáng này đã trở nên gần gũi, thân thuộc với tất cả mọi người. Bài thơ khiến ta thêm yêu đất nước với bao cảnh đẹp tình sâu và thêm trân trọng những hồn thơ rung động diệu kì trước những bức tranh non sông gấm vóc.

Hồng Loan tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm:

  • cảm nghĩ bài qua đèo ngang
  • cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang
  • cảm nhận của em về tác phẩm qua đèo ngang
  • phát biểu cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang

Bài viết liên quan

  • Phát biểu cảm nghĩ về bài Sau phút chia li – Văn hay lớp 7
  • Nghị luận xã hội về việc giữ gìn bản sắc văn hoá qua truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải – Văn hay lớp 12
  • Phân tích tác phẩm Những ngôi sao xa xôi – Văn hay lớp 9
  • Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Bài ca Côn Sơn – Văn hay lớp 7
  • Nghị luận xã hội về câu nói: Sự học không có quê hương nhưng người học có học vấn phải tổ quốc – Văn hay lớp 12
  • Phân tích tác phẩm Ra-Ma buộc tội – Văn hay lớp 10
  • Phân tích tác phẩm Tự tình – Hồ Xuân Hương – Văn hay lớp 11
  • Phát biểu cảm nghĩ về bài Bài học đường đời đầu tiên – Văn hay lớp 6
0