25/05/2017, 00:51

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Văn mẫu lớp 12

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Lam Sơn Thanh Hóa Nguyễn Thi có một tâm hồn tha thiết, yêu ...

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Lam Sơn Thanh Hóa Nguyễn Thi có một tâm hồn tha thiết, yêu thương và căm thù mãnh liệt. Điều đó khiến cho những trang viết thật ...

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường chuyên Lam Sơn Thanh Hóa

Nguyễn Thi có một tâm hồn tha thiết, yêu thương và căm thù mãnh liệt. Điều đó khiến cho những trang viết thật giàu có về hình tượng và mỗi hình tượng đều rung động chúng ta sâu sắc… yêu thương và căm thù, đó là hai nguồn sức mạnh tạo tính cách đặc biệt ngoan cường cùa nhân vật Nguyễn Thi.

Có người cho rằng Nguyễn thi đúng là đứa con của vùng quê nghèo gặp thời chinh chiến được sinh ra ở miền bắc trong một gia đình gieo neo vất vả phải theo anh sinh sống, trưởng thành và tham gia cách mạng miền nam 1945.

Lăn lộn với người dân Đồng Bằng Sông Cửu Long, vào sinh ra tử, Nguyễn Thi đã thấm đấm chất nam bộ từ con người tới tâm hồn. Cùng với bản chất sâu sắc của người dân đất bắc, ông đã đưa chúng vào những trang văn. Bởi vậy khi đọc những trang văn của ông nhiều người cho rằng:” Nguyễn Thi là cây bút có biệt tài phân tích tâm lí con người có khả năng thâm nhập sâu vào nội tâm nhân vật của mình” tạo nên những hình tượng gân guốc có cá tính mạnh mẽ và Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho biệt tài của đó của ông.

Truyện kể về người lính giải phóng tên Việt bị thương và thất lạc đồng đội trong một trận đánh khốc liệt với quân Mĩ. Sau mấy ngày anh được đồng đội cứu đưa về, nhận được thư chị Chiến rồi nhớ lại chị Chiến và nhớ lại những trận chiến khốc liệt làm anh bị thương với quân Mĩ. Lúc tỉnh, Việt bò lê đi tìm đồng đội, lúc mê, Việt mơ thấy cha bị giặc bắt chặt đầu mẹ bị đạn pháo giết hại, nhớ chuyện cùng với chị Chiến giành nhau đi bộ đội trước, nhớ chuyện hai chị em cùng nhau bàn bạc thu xếp việc ra đình trước lúc đi…Việt nhớ không sót chuyện gì về những đứa con trong gia đình cho tới khi anh Tánh và đồng đội tìm thấy và đưa Việt về.

Về nhệ thuật, ngôn ngữ toàn bộ truyện là ngôn ngữ  của người nam bộ, kể cả những đoạn miêu tả cảnh và người của nhà văn:

"… Việt giấu chị như giấu của riêng vậy. Cậu ta sợ mất chị mà cái miệng ống loa của Tánh không bịt lại được…’’-. Tả tâm trạng: "… Việt lắng nghe, đúng là những con ếch nhái bụng tròn vo, mắt thồi lồi, hay ngồi liếm mép kêu uôm uôm…”. Tả loài vật: "… Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Cha, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu dạn xung phong thôi": độc thoại ngắn gọn theo phong cách Nam Bộ…

Toàn truyện, có nhân vật Tánh và một số đồng đội, nhưng trong đoạn trích để phân tích chi có mỗi nhân vật Việt xuất hiện. Qua trí nhớ của Việt, nhiều nhân vật khác trong gia đình xuất hiện, vẫn có nhừng đoạn văn ghi đối thoại giữa các nhân vật một cách gián dị, chân thật như đang sống hiện hữu giữa cuộc đời. Đây là những hồi ức đã ăn sâu vào từng tế bào, thớ thịt của Việt: Hãy đọc lại một đoạn hồi ức của Việt qua ngòi bút của nhà văn:

"Mình đi đâu thì ba má đi theo đó chớ gì mà lo?

Vậy chứ ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm em có ừ không?

Ừ! mà hồi đó má dặn chi vậy hả?

Má có biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường:

Vậy mà nói nghe in như má vậy.”

Đoạn văn đối thoại vừa thông minh vừa ngây thơ, thật dễ thương để diễn tả tình cảm của nhân vật. Không những thế, Nguyễn Thi còn thành thạo trong sử dụng thành thạo văn độc thoại:

"… Việt còn đây! Việt sẽ tới phụ với các anh!…”

"… Vậy là ban ngày đã đến. Mùi nắng cỏ thể ngửi thấy được. Hai mắt Việt

Bị thương thiệt rồi, nó đang sưng lên cho nên ban ngày rồi mà Việt không thấy gì  hết. Nếu giặc tới thì làm sao bắn?…”

"… Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cá khu rừng này chỉ có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày…”.

Truyện ngắn có nhiều đoạn văn độc thoại hay như những đoạn văn ngắn trên. Chúng rất phù hợp với những hồi ức trong những cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù như E. Hemingway đã sử dụng độc thoại trong hầu hết những tác phẩm nổi tiếng của ông.

Truyện phong phú chi tiết, sự việc xảy ra đan chéo nhau. Quá khứ gần đan chéo quá khứ xa, quá khứ xa đan chéo quá khứ gần (quá khứ gần: Việt bị thương, nằm ở đơn vị; quá khứ xa: Chuyện xảy ra trong gia đình, trong làng xóm Việt ; và hiện tại tại: Việt đang điều trị ở bệnh viện và nhận được thư chị Chiến Mỗi sự việc xảy ra đều có xung đột, và được giải quyết hợp lí, liền mạch truyện…

Kẻ thù xuất hiện trong trận đánh, có bom đạn, xác Mĩ. Chủ yếu nhân vật trong truyện là những nhân vật cùng tuyến chính diện. Và ai cũng mang truyền thống yêu thương, chống giặc ngoại xâm.

Người gần gũi với Việt lúc này là “anh Tánh”, tiểu đội trưởng luôn quan tâm đến Việt. Vừa đánh giặc vừa tìm cứu Việt ngoài chiến trường, vừa chăm sóc, nhắc nhở Việt viết thư cho chị. Thế nhưng chú Năm mới là người thân thiết.

Chú Năm: là người yêu quê hương tha thiết: "… chú kể chuyện con sông nào ở nước ta cũng đẹp, lắm nước bạc, nhiều phù sa, vườn ruộng mát mẻ cũng sinh ra từ đó, lòng tốt của con người cũng sinh ra từ đó…”.

Đất đẻ ra nước, nước đẻ ra người. Người thương đất nước là lẽ đương nhiên.

Chú năm đi rộng, biết nhiều: "… Chẳng là trước kia chú vốn đi bè cũng ham sông ham bến, nên biết nhiều nơi”… “Những câu hò chú thuộc từ hồi đi chèo ghe mướn ở Sài Gòn, lục tỉnh"…

Là người lớn duy nhất còn lại giữ riềng mối gia đình. Chú quý trọng gia đình lắm: "… Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta củng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm. ”. Riềng mối gia đình cụ thể là ở cuốn sổ tay chú ghi đủ mọi chuyện xảy ra trong gia đình, cho gia đình. Chú ghi đủ hết. Từ chuyện "… Thím năm bơi xuồng đi rọc lá chuối bị ca-nông Mỏ Cày bắn bể xuồng, chết còn rnặc cái quần mới…” đến chuyện “lính tổng Phong… bắn vào giữa bụng ông nội”. Từ chuyện bà nội bị lính quận Sơn bắt, đánh đến chuyện: “Thằng Hai, con chú Năm… bò và đặt trái, lấy cốt xong, bó năm cây súng vác về nhà”… Chú còn mượn câu hò đế gửi gắm lòng mình… “Lúc đó, gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắn nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể để chú gửi gắm những câu hò đó…”.

Còn ba, má Việt thỉ sao?

Bắt đầu từ cuộc đời con gái, “chiều chiều má đi làm mướn về, vì không tiền đi đò nên vẫn lấy nón làm phao mà lội qua sông. Ba hồi đó còn là trai, cầm tầm vông gác bến đò. Một buổi má xin giang xuồng, ba nhứt định không cho, má liền phóng xuống sông, lội. Xuồng ba cặp bến thì má cũng lội tới bờ. Hai bên giáp mặt. Ba cười hề hề, nhưng má chẳng thèm dòm, hai mắt hử một cái “cóc” rồi đi thẳng”.

"… Chiều hôm đó má gánh cơm đi tặng bộ đội “tầm vông” thì lại gặp ba trong hàng ngũ đó”. Tình yêu nên chồng, nên vợ của ba má Việt như vậy đó. Nhưng hai người thương nhau vô cùng.

Ba cũng đánh Tây, “ôm đệm đi ngủ ngoài bờ bị lính Tây bót Kinh Ngang bắt chặt đầu”. Tình thương yêu của má biểu hiện càng cao: "… tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngoài.. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cáp rổ…”. Đòi được đầu về rồi má mới khóc thương ba mà chẳng kể gì hết.

Má thương các con, thương ba nên luôn luôn so sánh việc làm của Việt là giống ba Nhờ có ba mà má dạn lên, một mình nuôi bốn đứa con nhỏ dại. Má cũng anh hùng – nhờ chiếc xuồng, má làm việc đầu tắt mặt tối để nuôi con, nhưng cũng chở người đi đấu tranh ở trên quận. Xuồng bị đập bể, má đi chân không. Lội sình tìm việc nuôi con mà cũng để nghe ngóng tình hình. Hình ảnh về cái chết của má cũng thật gan dạ: … Má vừa mới đi đấu tranh ở Mỏ Cày về, cà nông nó bắn đuổi theo. Một trái rơi bịch trên lộ, trước mặt má, không nổ, má đến dòm dòm rồi bỏ luôn vào rổ, cắp về. Một trái khác đã văng miểng trúng má lúc má về tới đầu xóm. Má nằm xuống, trái cà nông lép trong rổ rau còn nóng hổi, Má chết…". Hơi cường điệu trong miêu tả, nhưng hình ảnh má hi sinh thật anh hùng. Như ngày nào má dõng dạc buông câu trả lời nổi tiếng khi kẻ thù hỏi: “Vợ Tư Nông đây!”…

Tóm lại, mẹ Việt rất yêu thương chồng: “Lấy chồng rồi, má lại lặn lội thăm chồng. Lên rừng xuống biển má cũng đi, vai gánh chục dừa, một đầu thêm nải chuối, một đầu thêm vài rẽ thuốc”. Đó là hình ảnh của người vợ lặn lội thân cò đế lo lắng cho chồng. Và đồng thời, đấy cũng là người mẹ rất thương con, dồn hết tình thương cho con: “Vì mong cho con mau lớn mà má trông từ cách con làm tới miếng cơm con ăn trong miệng”.

Chị Chiến: Một người con hiếu thảo, người chị mẫu mực trong gia đình, và là người con gái mang truyền thống giặc xâm lược. Một người con hiếu thảo khi chị giúp mẹ làm công việc trong nhà để mẹ làm mướn nuôi mấy chị em, để mẹ có thì giờ cùng bà con đấu tranh. Sau khi hai chị em cùng đăng kí đi bộ đội, một mình Chiến lo suy nghĩ, thu xếp nơi đặt bàn thờ của cha, mẹ. Chuẩn bị bữa cơm cúng cha mẹ trước khi dời bàn thờ sang nhà chú Năm.

Một người em, người chị mẫu mực:

Viết thư cho chị Hai dù chị là con nuôi của ba, má… Luôn luôn nhường nhịn em: nhường em về công soi ếch nhái, nhường cả “vết đạn bắn thằng Mĩ trên sông Định Thủy” độ nào.

Chiến luôn luôn hỏi ý em một cách khéo léo về những công việc gia đình 'ẩn giải quyết trước khi hai chị em cùng lên đường.

Chuyện căn nhà, bàn ghế… chuyện thằng út:

"… Chị em mình đi thì thằng Út sang chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học… Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học, nghen?…

"… Bàn thờ má gới đâu? Gởi sang chú Năm cho thằng út coi chừng hay là chi Hai về đem đi?”.

"… Cliị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống… dùng cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên….”.

Chị Chiến giỏi và khéo như vậy nên đã được chú Năm khen:

“Khôn! Việc nhà có thu gọn được thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non…”.

Ở chiến trường, luôn viết thư liên lạc động viên em, nhưng trước hết Chiến là một người dân biết bổn phận. Điều này được thể hiện ở chỗ hai chị em giành nhau đi tòng quân. Chiến đã lí luận: “Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ với chú Năm, qua năm hãy đi"… “Hổi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau”.

… Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Tinh thần chiến đấu của Chiến quả rất cao.

Nguyễn Văn Việt là một thanh niên nông thôn mới lớn, thật thà, chất phác yêu quê nhà, những người thân, gắn bó với đồng đội, can đảm giữa mặt trận. Trước hết Việt là người tha thiết yêu quê nhà.

Ếch nhái kêu dậy lên – Việt lắng nghe, đúng là những con ếch nhái bụng tròn vo, mắt thồi lồi, hay ngồi liếm mép kêu uôm uôm. Ớ quê Việt, những đêm như đêm nay, đèn soi nhấp nhánh đầy đồng”. Từ tiếng ếch kêu trong hiện tại trước khi Việt bị thương, Việt nhớ nhà, quê hương với những chi tiết cụ thế “Cứ trời mà dứt hột’’, Việt đã cởi trần ra, hai chị em, hai cái đèn soi, lóp ngóp đi”.

Và lúc nào cũng yêu thương những người trong gia đình, lúc còn nhỏ, đã biết yêu thương gia đình. Thương Ba nên đi đâu cũng đòi đi cùng ba. Thương má nên làm theo lời dặn của má: “Việt à, coi chừng nhà nghe con!… Việt à, ra phụ má nghe con!”. Lúc chuẩn bị ra đi thì cùng chị chăm lo, thu vén công việc gia đình. “Việt thương chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt. Chú là người thân gần nhất và lớn nhất còn lại của gia đình”… Khi bị thương, Việt nhớ chị Chiến, nhớ thuở còn nhỏ hai chị em đi soi ếch, nhớ tới chuyện cùng chị chạy lon lon theo má đi đòi đầu ba. Nhớ vụ cãi nhau trong việc tòng quân, nhớ tới đêm nằm nghe chị bàn chuyện thu xếp nhà cửa, nhớ tới ngày hai chị em đưa bàn thờ mẹ sang nhà chú Năm, Việt “thấy thương chị lạ". Việt nhớ tới chú Năm vì hồi đó chú hay bênh Việt; nhiều nhất là Việt nhớ tới mẹ. Trong hồi ức của Việt, hình của người mẹ luôn hiện ra. Việt nhớ tiếng chân “má đi lịch bịch vào nhà". Việt còn nhớ cả mùi hôi của má, rồi có lúc Việt mơ ước được má xoa đầu như những ngày còn bé. Việt cũng nhớ đồng đội như in. “Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công…”.

Và cuối cùng Việt căm thù giặc và dũng cảm trong chiến đấu. Đây là những đoạn mô tả tầm lí mà Nguyễn Thi đã vận dụng nghệ thuật viết hồi ức, những đoạn văn độc thoại ngắn hay nhất. Nhân vật nào gần gũi với Việt cũng mang lòng căm thù giặc không chỉ nghĩ, nói mà cả ở hành động.

Hồi nhỏ, qua lời kể của má về Việt: "… Phải hồi đó tao không níu lại thì nó đã bắn mày rồi. Đầu ba ở dưới đất không lượm, cứ nhè cái đầu thằng vừa liệng đầu mà đá” gan lì, căm thù kẻ ác từ nhỏ. Lúc đi đánh giặc: Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”: Thù vì ba thì bị chặt đầu, má thi bị đạn ca nông bắn chết.

Bốn lần ngất đi, tỉnh lại đều có bóng dáng căm thù trong tâm tư, trong cử chỉ của người lính bị thương ấy: "… Đơn vị của Việt đâu? Các anh ở gần hay ở xa? Không tìm thấy Việt sao? Việt đi bánh xe ở tuốt đằng kia, xa lắm, thù pháo đã bổ vào thùng nó, chắc nó cháy rồi, bây giờ Việt đi tìm các anh đây!"

Có căm thù mới chiến đấu can đảm đến như vậy. Có căm thù mới "… bò gấp. qua những cái gì nữa Việt không cần biết, quên cả khắp người đang rỉ máu quên cả trận địa sắt thép ngổn ngang mà thương tích”… Quyết, vượt qua đau đớn của thế xác đế tìm cho ra đồng đội. "… Việt chộp súng, lên đạn. Cả mười ngón tay không ngón nào còn lên nổi. Việt ghé răng giựt mạnh cơ bấm. Một viên đạn lên nòng…” “…khi nghe thấy tiếng động, Việt cứ đinh ninh là giặc, đang chuẩn bị bắn nó và chờ phút quyết liệt nhất của đời mình coi cái chết nó ra sao…” Sẵn sàng chấp nhận hi sinh cho tới hơi thở cuối cùng.

“Cái sâu sắc của Nam Cao, cái chấm biếm của Nguyễn Công Hoan, cái mới lạ của Trần Đăng, cái tinh tế của Bùi Hiển… ít nhiều đều có dấu ân trong Nguyễn Thi ,Nguyễn Thi cho tôi thấy bao nhiêu là tình sâu nghĩa nặng trong một chữ gia đình, nó là nỗi niềm sâu thẳm của người chiến sĩ ra trận lần đầu…” (Phong Lê)

Nguyễn Thi có một tâm hồn tha thiết, yêu thương và căm thù mãnh liệt. Điều đó khiến cho những trang viết thật giàu có về hình tượng và mỗi hình tượng đều rung động chúng ta sâu sắc… yêu thương và căm thù, đó là hai nguồn sức mạnh tạo tính cách đặc biệt ngoan cường cùa nhân vật Nguyễn Thi..  Sự hiểu biết cặn kẽ tâm lí con người, khả năng thâm nhập vào dòng tâm sự của nhân vật để quan sát, phát hiện và phân tích một cách tỉ mỉ, đồng thời thông qua đó mà dẫn câu chuyện một cách linh hoạt. Những đứa con trong gia đình có thể coi là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyền Thi về phương diện này”.

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 2

Truyện viết năm 1966, lúc Bến Tre đã đồng khởi, nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mĩ – Ngụy, giành quyền sống và giải phóng quê hương. Chiến và Việt lớn lên trong cảnh tang tóc của gia đình và trong cuộc đứng dậy đồng khởi vĩ đại của quê nhà.

Nguyền Thi thuộc lớp nhà văn cầm súng. Ông hi sinh trong vị trí, tư thế chiến đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh vào Sài Gòn. Trước đó. ông có mặt ở những vùng chiến trận khốc liệt (Củ Chi đất thép…)

Trong truyện Anh chiến sĩ trẻ Việt bị thương nặng trong trận đọ súng với lính Mĩ. Tỉnh dậy lần đầu tiên vào ban đêm, Việt thấy mình lạc đơn vị, khắp người anh rỉ máu giữa trận địa đầy xác giặc. Việt chộp súng, dùng răng lên đạn, sẵn sàng chiến đấu. Tỉnh dậy lần thứ hai, Việt nhớ về quê nhà, nhớ chú Năm với cuốn sổ ghi chuyện, ghi công gia đình. Choàng dậy lần thứ ba, Việt phát hiện hai mắt không còn nhìn thấy gì, cả chín ngón tay đều bị thương. Anh nhớ đến câu chuyện má kể việc đi đòi đầu ba bị giết hại thời đánh Pháp. Việt tỉnh dậy lần thứ tư vào đêm thứ hai. Nghe thấy tiếng súng của ta, Việt chuẩn bị lựu đạn và súng để hiệp đồng và ráng bò lết về phía trận đánh. Anh tiếp tục nhớ lại ngày tranh nhau cùng chị Chiến tòng quân. Rồi hai chị em cùng được nhập ngũ một lần và thu xếp việc nhà, khiêng bàn thờ má đi gửi để yên tâm đi chiến đấu.

Sau ba ngày tìm kiếm, mấy lần chạm súng với địch, tiểu đội của Việt đã gặp được anh.

Nhân vật Việt

Ý chí chiến đấu mạnh mẽ và tình cảm đậm đà bộc lộ khi Việt bị thương rất nặng, cố tìm về đồng đội.

Hoàn cảnh và thể trạng: Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc; chân tay tê dại nhức nhối; khắp người ri máu; miệng tê cứng không la lên được; mắt cũng bị thương, không nhìn thấy gì. Mỗi lúc Việt càng thêm kiệt sức.

Tính cách và tâm trạng

Cố bò đi tìm đồng đội và sẵn sàng chiến đấu bằng khẩu súng của mình. Mười ngón tay không lên đạn được. Việt dùng răng giật cơ bấm, đưa ra một viên đạn lên nòng. Chi tiết này nói lên tinh thần chiến đâu, ý chí diệt giặc ở Việt rất mạnh.

Nhớ về quê nhà, nhớ chị. nhớ chú Năm, nhớ má, nhớ ngày tòng quân. Đặc biệt Việt nhớ hình ảnh má rất rành rõ (ngày mấy chị em theo má đi đòi đầu ba, ngày hai chị em khiêng bàn thờ má đi gửi để lên đường chiến đấu). Trong tâm tưởng Việt, má là người phụ nữ lao động khỏe mạnh, xốc vác, đảm đang việc nhà việc nước (đôi vai lực lưỡng, đôi mắt mở to, bắp chân tròn vo luôn dính sình đất, hai bàn tay to bản…).

Tóm lại, Việt đã bị thương, không nhìn được bằng con mắt thường anh đã nhìn sự việc hiện tại và quá khứ bằng con mắt của ý chí, của tâm tưởng. Qua đó nhân vật bộc lộ nghị lực, ý chí, tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương đậm dà, hồn nhiên. Cũng như chị, nhân vật trẻ này nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận thức: đi đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng. Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe lời chị (lúc hai chị em bàn việc nhà), thương chị. Nhân vật này cũng thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung, thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết cái ná thun theo Việt đi chiến đấu; không muốn mất chị; đang bàn việc nhà mà ngủ lúc nào không biết…).

Chính tình chị em, chú cháu, má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua thử thách, chiến thắng hoàn cảnh khắc nghiệt, bi đát.

Nhân vật Chiến: hiện lên qua hồi ức của cậu em

Biết lo toan, tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20: cô đóng vai trò một người chị với lòng yêu thương, nhường nhịn; một người má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt; một người chiến sĩ khát khao chiến đấu, trả thù.

Có tinh thần quvết chiến cao (như tên của cô: Quyết Chiến). Câu nói điển hình của cô với em: “Nếu giặc còn thì tao mất” – và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân dịa phương.

Tóm lại, Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời nói), giống như những người phụ nữ thời chiến phải đương đầu với hoàn cảnh thương đau quyết liệt. Chiến mang hình ảnh của má trong mình, nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu súng trong tay.

Đặc sắc nghệ thuật

Khai thác những nét, khía cạnh dí dỏm, dân dã rất Nam Bộ

Các chi tiết: Việt “giấu chị”, chú Năm ghi sổ gia đình; chị em giành nhau đi bộ đội; cái ná thun theo Việt ra trận; người mẹ lấy nón làm phao lội qua sông…

Các từ ngữ: giọng hò đục và tức như gà gáy; Việt đá trái dừa xuống mương cái đùng; Chiến hứ một cái “cóc”…

Đặt truyện trong bối cảnh đặc biệt, khác thường (một mình Việt trọng thương, bị lạc), hoàn cảnh cũng khác thường (cuộc chiến đấu quyết liệt Bến Tre là mảnh đất đồng khởi đầu tiên, xã Định Thủy, quê nhà của gia đình Việt lại là quê hương của cuộc đồng khởi vũ bão, dữ dội) nên hành động, tính cách nhân vật bộc lộ những nét khác thường (người vợ cắp rổ đi đòi đầu chồng; má Việt bỏ trái cà nông – giặc mới bắn, không nổ – vào rổ, cắp về; hai chị em giành nhau đi bộ đội, rồi cùng lên đường một lần, để lại đằng sau tất cả nhà cửa và đứa em nhỏ) đồng thời nhân vật vẫn mang những tình cảm truyền thống tốt đẹp (tình thương yêu).

Kết nối, trộn lẫn việc đánh giặc và sinh hoạt bình thường ở quê nhà

Tên truyện là Nkững đứa con trong gia đình, tác giả lại kể chuyện ở chiến trường. Nói chuyện chiến trường mà lại tái hiện chuyện trong gia đình.

Viết như vậv là phản ánh trung thực một thời, trên mảnh đất khét nồng bom đạn, hầu như không còn ranh giới giữa tiền phương, mặt trận và gia đình, đánh giặc và sinh sống. Bấy giờ, ở đó, sống là cầm súng, là chiến đấu; sống là phải đương đầu với cái chết và thắng cái chết.

Truyện tái hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước, giành lại cuộc sống.

Qua các nhận vật chính ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh anh hùng của gia đình, quê hương, xứ sờ. Đồng thời mỗi người lại góp một “khúc sông” xứng đáng vào con sông gia đình kiên cường, tất cả đổ vào, tạo ra biển cả truyền thống dân tộc. 

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 3

I . Mở bài

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ . Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình . Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.

II Thân bài

Những đứa con trong gia dình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi viết ngay trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng năm 1966. Nhân vật chính của truyện là Việt .Việt là một chiến sĩ giải phóng quân.Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại,Mẹ Việt một mình nuôi con vất vả rồi cũng chết vì bom đạn.Gia đình chỉ còn lại Việt, chi Chiến, thằng Út em ,chú Năm,và một người chi nuôi đi lấy chồng xa.Truyền thống ấy được chú Năm ghi tất cả vào cuốn sổ gia đình.Việt và Chiến hăng hái đi tòng quân giết giặc,Trong một trận chiến đấu,Việt hạ được một chiếc xe bọc thép của địch nhưng lại lạc đồng đội và bị thương nặng ngất đi tỉnh lại nhiều lần.Mỗi lần tỉnh lại,dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má,về chị Chiến,chú Năm,đồng đội và anh Tánh…Anh Tánh và đồng đội tìm được Việt, đưa về điều trị một bệnh viện và sức khoẻ Việt dần dần hồi phục.Chuyện được kể theo dòng hồi ức của Việt trong những lần ngất đi tỉnh lại ấy.

Đặc sắc của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung, son sắt với cách mạng. Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc điểm của nhân vật Nguyễn Thi. Đó là:Căm thù giặc sâu sắc ; Gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc ; Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung son sắt vời quê hương và cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình ấy, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điểm nói lên tài năng của Nguyễn Thi.

Trong dòng sông truyền thống gia đình này, chú Năm là khúc thượng nguồn, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú Năm là người lao động chất phác nhung giàu tình cảm. Tâm hồn chú Năm bay bổng, đạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Những lúc đó, chú Năm như đặt cả trái tim mình vào trong câu hò, tiếng hát.

Cùng với chú Năm, má Việt cũng là một hiện thân của truyền thống. Đây là một hình tượng người phụ nữ mang đậm những nét tính cách của nhân vật Nguyễn Thi. Rất gan góc, căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát. Cuộc đời lam lũ, vất vả chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con, đánh giặc. Một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng; hiên ngang đối đáp vời kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đang nép đước chân”; mỗi lần bọn lính bắn doạ “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”… Đó là hình ảnh của sự gan góc, chở che mang ý nghĩa biểu tượng về người phụ nữ ở một xứ sở như đất nước ta, cuộc sống thì lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng con người lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Má Việt đã ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà-nông lép má nhặt đem về vẫn còn nóng hổi. Trong quan niệm của Nguyễn Thi, người mẹ ấy cái phần thác chỉ là thể phách còn linh hồn thì bất tử, sống mãi tròng những đứa con. Không phải ngẫu nhiên mà vào cái đêm sắp xa nhà đi chiến đấu, những đứa con đểu cảm nhận không phải ai khác mà chính là người mẹ đã hiện về.

Chiến có những nét giống mẹ: gan góc, đảm đang tháo vát. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ nhân vật Chiến. Chiến là một tính cách đa dạng: vừa là một cô gái mới lớn, tính khi còn rất trẻ con, vừa là người chị biết nhường em,.,biết lo toan, đảm đang, tháo vát. So với người mẹ, Chiến không chỉ khác ở cái vẻ trẻ trung thích làm duyên làm dáng. Vận hội mới của cách mạng đã tạo điều kiện cho Chiến được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lới thề như dao chém đá của mình: “Đã lăm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất” .

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật xuất hiện nhiều lần nhất. Việt đã hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt ta, vừa là cậu con trai mới lớn, vừa là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm, kiên cường. Việt có cái nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính anh còn rất trẻ con, rất ngây thơ, hiếu động.

Nếu Chiến luôn biết nhường nhịn em, thì trái lại, Việt lại hay tranh giành phần hơn với chị. Việt rất thích đi câu ca, bắn chim, và đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo cả cái súng cao su ở trong túi. Mọi công việc trong nhà, Việt đều phó thác cho chị. Đêm trước ngày lên đường, Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách trang nghiêm còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con, “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lới tán tỉnh đùa tếu của anh em. Việt bị thương nằm lại ở chiến trường, đến khi gặp được đồng đội thì cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà “khóc đó rồi cười đó”,…

Tuy vẫn còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng thật đường hoàng, chững chạc trong tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Dòng máu nóng chảy trong người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ biết sợ trước sự bạo tàn. Cho nên, còn bé tí mà Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc đã giết hại cha mình. Việt đã nằng nặc đôi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch. Và đến khi bị trọng thương, một mình nằm giữa chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau điếng và rỏ máu, người thì khô khốc đi vì đói khát, Việt vẫn ớ trong tư thế chờ tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.”. Có thể nói, hành động giết giặc để trà thù nhà, đền nợ nước đã trở thành một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi.

Đọc Những bứa con trong gia đình, không ai có thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân… rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mời thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Trong cái không khí vô cùng thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình thành một người khác, trưởng thành và khôn lớn hơn. Một người hôn nhiên, vô tư như Việt, vào chính chính giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình, có khối, có trọng lượng cụ thể đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa biết bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương,…

III . Kết bài

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.

Phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi – Bài làm 4

Nguyễn Thi (1928 – 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, ông vào Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Năm 1962, ông tình nguyện trở về Nam, công tác tại Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu nóng bỏng của chiến trường là nguồn cảm hứng vô tận để ông sáng tác bút kí, truyện ngắn và tiểu thuyết với bút danh Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ tình.

Nguyễn Thi viết được nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi hi sinh, các sáng tác của ông được sưu tập và in trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển) xuất bản năm 1996. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi. Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ và khẳng định : lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng là sức mạnh tinh thần to lớn của họ trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Truyện kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người chú để cùng tham gia bộ đội, trực tiếp cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước. Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.

Đọan trích có thể chia làm hai cảnh, cảnh một: Tác giả kể vể tình huống và tâm trạng của Việt lúc bị thương. Cảnh hai: Việt nhớ lại chuyện hai chị em tranh nhau xin nhập ngũ và sau đó cùng thu xếp việc nhà để lên đường đi chiến đấu.

Ở cảnh một, lần thứ tư tỉnh lại, trong kí ức Việt hiện lên những kỉ niệm vui buồn về người mẹ thân yêu luôn đùm bọc, che chở cho các con: Má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ảnh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?

Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi chọn những chi tiết điển hình hàm chứa nhiều ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Mỗi lần bọn lính bắn dọa, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển… Đó là hình ảnh của người phụ nữ miền Nam gan góc, kiên cường, yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và rất mực thương chồng thương con. Cuộc sống lam lu vất vả, chồng chất đau thương nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, vượt qua để nuôi con, đánh giặc.

Hình ảnh chú Năm hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện đang phân vân không biết giải quyết thế nào trước tình cảnh hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên nhập ngũ thì chú Năm đứng ra bảo lãnh cho cả hai: Từ dưới sân, chủ Năm bước lên. Chú nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:

–    Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.

Chú Năm cẩn thận ghi chép đầy đủ tội ác dã man của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú Năm bàn giao cuốn sổ cho hai chị em :

Khôn ! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước – Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.

Cuốn sổ tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì đặc biệt lớn bởi nó vừa biểu dương công trạng của từng thành viên, vừa là một tấm bia căm thù, vừa thể hiện quyết tâm đánh giặc của một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ do thế hệ cha chú giữ gìn và ghi chép, nay con cháu đã trưởng thành, chú Năm bàn giao lại cho thế hệ trẻ viết tiếp. Vì vậy, cuốn sổ cũng chính là câu chuyện về cha con, chú cháu cùng đánh giặc để giải phóng quê hương. Điều đó thể hiện một cách giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến của lịch sử Việt Nam, quy luật của sức sống Việt Nam : Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã trở thành sự nghiệp chung của nhiều thế hệ.

Là một nông dân chất phác và giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một việc, tâm hồn chú Năm lại lâng lâng bay bổng, dạt dào cảm xúc. Chú gửi gắm tình cảm tha thiết của mình vào tiếng hò, tiếng hát quen thuộc của quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin rằng các cháu đã đủ sức gánh vác việc lớn của xã hội. Trong lòng vui vẻ, chú cất lên tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ, lời thề:

Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.

Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả nhiều như nhân vật Việt nhung vẫn hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ đảm đang, vị tha, nhân hậu. Những gì quen thuộc, tiêu biểu trong phẩm chất đáng quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng sâu đậm trong cô con gái có cái tên rất con trai là Chiến. Bởi thế nên mỗi khi nghe chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra má và thấy chị sao mà qiống má đến thế ! Điều đó làm cho Việt bùi ngùi nhớ má và càng thương chị hơn. Hai chị em tuy có hai tính cách khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ đều ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng của gia đình, dòng họ, láng xóm, quê hương.

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật được nói đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn như hồn nhiên, hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường.

Ở cảnh một, nhà văn đã để cho nhân vật Việt xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa trận địa vắng lặng đến ghê người sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của hiểm nguy, của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Nguyễn Thi đã viết thật hay, thật cảm động về cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất của chàng tân binh trơ trọi một mình, lại bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói khát. Ngón tay Việt đau không còn kéo nổi cò bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Anh ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Ở trạng thái như thế, người ta có thể nghĩ gì ? Chắc chắn là sẽ nhở lại những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã thực sự làm nên đời sống tinh thần của mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt nhớ đến những đồng đội (anh Tảnh, anh Việt), người thân (chị Chiến, má, chủ Năm…), tác giả đã khẳng định rằng gia đình là cội nguồn sức mạnh của con người và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng :

…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…

Có một chi tiết khá thú vị là đánh giặc Việt không sợ nhưng vẫn rất sợ ma. Tuy mới nhập ngũ nhưng Việt tỏ ra là một chiến sĩ thông minh, phân biệt rõ tiếng súng của ta, tiếng súng của giặc; phán đoán được tình huống của trận đánh : Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi ! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi ! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.

Tuy đang lâm vào tình huống hiểm nghèo nhưng Việt vẫn hướng về đồng đội, tin tưởng vào chiến thắng : Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…

Đối mặt với cái chết, Việt cố gắng tìm về với cuộc sống : Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…

Đời người lính chiến, giữa hi sinh tính mạng và chịu đựng khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì hi sinh tính mạng dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể về nghị lực phi thường của Việt là khúc ca ca ngợi tinh thần dũng cảm của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.

So sánh nhân vật Chiến và Việt, ta thấy điểm giống nhau của hai chị em là đều có một tình yêu quê hương, đất nước và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu trong tâm khảm mối thù không đội trời chung với những kẻ đã giết hại ba má và đồng bào mình. Từ đó, hai chị em xác định mục đích của cuộc đời mình là phải trả thù bằng được cho ba má, cho quê hương. Chính vì mối thù này mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm đánh giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể rằng chú Năm nói lần này hai chị em ra đi chiến đấu, thù ba má chưa trả được mà trở về thì chú chặt đầu, Việt nói tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến thì cũng khẳng khái nói: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à !

Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Thi chính là ở chỗ ông đã có cách miêu tả khác nhau nên Chiến và Việt hiện ra với cá tính riêng không thể lẫn.

Hơn em một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra là một người chị khôn lớn, đảm đang, việc gì cũng nhận lãnh về mình. Ba má đã khuất, Chiến sớm ý thức được vai trò của người chủ gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lửa tuổi để thay ba má lo liệu việc nhà, bảo ban các em.

Việt là em nên ỷ lại mọi việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý mình. Chiến nhường nhịn em trong mọi việc nhưng có một việc Chiến kiên quyết không nhường, ấy là ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị thương em hết lòng cũng thể hiện ở chính điều đó. Thực ra, đây là một đức hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành về mình phần nguy hiểm để em được bình yên. Đoạn văn thuật lại cảnh hai chị em Chiến và Việt chuyện trò với nhau mộc mạc mà vô cùng cảm động:

… – Tao lớn tao mới đi, mầy còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm, qua năm hãy đi.

Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng:

–    Bộ mình chị biết đi trả thù à ?

–    Hồi đó má nói cho tao đi, mầy ở nhà làm ruộng với má, trọng trọng rồi đi sau.

–    Má nói hồi nào ?

Má chết rồi, không biết ai mà phân chứng. Nhưng chị Chiến vẫn không chịu, việc này đâu có nhường được, chị sang vận động chú Năm. 

Là chị cho nên Chiến thường tỏ ra có sự tính toán chu đáo, còn Việt thì nông nổi, vô tư. Một trong những tình tiết cảm động nhất của câu chuyện này là cuộc bàn bạc của hai chị em vào cái đêm cuối cùng trước khỉ ra trận. Họ phải làm những phần việc quá sức so với độ tuổi của mình. Đó là việc nhà cửa, làm ăn, việc nuôi dạy thằng út em, việc hương khói cho ba má…

–    Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng út sang ở với chú Năm, chú nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng út cũng học ở đây. Mầy chịu không ?

Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay:

–    Sao không chịu ?

–    Giường ván cũng cho xả mượn làm ghế học, nghen?

–    Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tội chịu hết.

–    Má dặn tao hồi nào ? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc, vả, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỗ má, chị có muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen ?

–    Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…

…" Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ đảng chia cho cô bác khác mần, nghen ? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm đốn, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen ?

-ừ!

–    Còn bàn thờ má em tính gởi đâu ? Gởi sang chủ Năm cho thằng út nó coi chừng hay là để chị Hai về đem đi ?

Việt ngóc đầu lên dòm bàn thờ. Từ nãy giờ đang mải với ý nghĩ má đã về, nghe chị hỏi, Việt lại tin má đã về ngồi đâu đó thật. Việt nói:

–    Mình đi đâu thì má đi theo đó chớ lo gì mà lo ?

–    Vậy chở ba má không theo con thì theo ai, nhưng mà cũng phải tính cho đâu ra đó chớ. Đem bàn thờ sang gởi chú Năm, em có ừ không ?

–    ừ!… Mà hồi đó má dặn chị vậy hả ?

–    Má cỏ biết má chết đâu mà dặn.

Việt sải chân ra giường :

–    Vậy mà nói nghe in như má vậy.

Chị Chiến hử một cái “cóc” rồi trở m

0