25/05/2017, 00:51

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Chu Văn An Hà Nội Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành ...

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Chu Văn An Hà Nội Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi ...

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT Chu Văn An Hà Nội

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng. Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnú mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngường mộ.

Có thể nói, nhân vật trung tâm của truyện Rừng xà nu là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai…, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…", bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu. cháy máu ròng ròng ". Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng". Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xẻ rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thẳng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ!”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong. Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kon Tum. Tnú đã vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phân như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”. Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng ‘bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?”. Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt cùa Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên “Chém! Chém hết!". Và lửa đã cháy khắp rừng…

Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt ,cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết.. nhừng người thân yêu của anh đã bị giặc giết, vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ờ trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm.

Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nửa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh cùa làng anh, yêu con nước mát lạnh… Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt, ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai cùa Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi.. ”.

Tnú mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hung, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnu làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sang, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương, Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnu bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sĩ đúc tượng Tnu, một anh hung thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại !…

Rừng xà nu là một truyện ngắn thấm đấm màu sắc sử thi , huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ – Diệm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hung, bi tráng. Rừng xà nu đã nêu cao một nhân lí cách mạng: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm sung, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnu là những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dung sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩn anh hung trong thời đại Hồ Chí Minh.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 2

Tây Nguyên miền đất đỏ ba dan với những văn hóa phi vật thể nổi tiếng, có bản anh hùng sử Đăm Săn. Nơi đây đã chịu bao mất mát bởi sự tàn phá dã man của kẻ thù, nhưng với phẩm chất gan dạ bất khuất họ đã đứng lên từ đau thương để chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp ta biết đến Núp với những đứa tính kiên cường, không sợ nguy hiểm của kẻ thù để chiến đấu. Đến cuộc kháng chiến chống Mĩ thì Nguyễn Trung Thành đã cho ta thấy vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên thông qua hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu” năm 1965. Qua nhân vật này tác giả đã cho ta thấy phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, không chỉ vậy mà còn là nhân vật gửi gắm những lời phát ngôn mang tính tư tưởng sâu sắc.

Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy nhân vật Tnú là trung tâm là linh hồn của truyện ngắn này, nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút sắc sảo giàu tính sử thi, nghĩa là nhân vật có một đời tư nhưng không được tác giả quan sát miêu tả từ góc nhìn của đời từ mà xuất phát từ vấn đè cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Vì vậy vẻ đẹp của nhân vật là vẻ đẹp của cộng đồng, vẻ đẹp người dân bất khuất kiên cường anh hùng trong chiến đấu. Còn nỗi đau của đời anh chính là nỗi đau của người dân Tây Nguyên trong trận chiến đẫm máu của kẻ thù. Tất cả đề được thể hiện qua hai chặng đời của Tnú lúc còn nhỏ và lúc trưởng thành. Qua nhân vật này nhà văn muốn thể hiện tư tưởng :” nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Vì vậy nhân vật Tnú còn gánh vai trò là nhân vật tư tưởng của tác giả.

Mặc dù mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng Tnú được sống trong sự đùm bọc chở che của dân làng. Và từ đây anh được giác ngộ lí tưởng cách mạng và từ đây anh ý thức được cách mạng, sống với một tuổi thơ phi thường đầy ắp những chiến công và kì tích. Tuổi thơ của một tiểu anh hùng nhỏ dũng cảm, gan góc và tuyệt đối trung thành với cách mạng.

Thật vậy phẩm chất anh hùng Tây Nguyên như ngấm vào máu của Tnú. Ngay từ khi còn nhỏ Tnú và Mai đã tham gia nuôi dấu cách mạng:” như cây xà nu vươn lên”. Đấy là con đường đầy máu lửa và hy sinh, địch khủng bố dã man những người nuôi dấu cán bộ. Anh Sút bị treo cổ ở cây vả đầu làng, lớp thanh niên bị lộ già làng đi thay bà Nhan cũng bị chặt đầu. Đó chính là hành động man dợ của kẻ thù hòng khuất phục tinh thần ý chí của dân làng xô man. Nhưng với tinh thần dũng cảm và ý chí đấu ranh thì Tnú cũng không sợ mà bước tiếp con đường mà dân làng đã đi. Khi anh Quyết hỏi Tnú:” em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Sút bà Nhan đó” Tnú đã khẳng khái trả lời:” cụ Mết bảo cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”. Mặc dù Tnú chỉ nhắc lại câu nói của cụ Mết nhưng qua đó ta thấy được sự lựa chọn của anh; giữa sinh mệnh của cá nhân và vận mệnh của dân tộc Tnú luôn sẵn sàng quên mình để bảo vệ cho cái chung đó. Như vậy Tnú không phải chỉ là một cậu bé gan góc, dũng cảm mà còn sớm có tinh thân yêu nước, yêu cách mạng. Người anh hùng nhỏ tuổi Tnú không chỉ sống một cuộc đời bình thường mà sống một cuộc sống phi thường. Ngay từ cách học của Tnú, Tnú cũng chọn cách học phi thường. Từ việc học chữ hay quên mà để trừng trị cái tính ấy của mình và thể hiện ý chí quyết tâm Tnú lấy đá đập vào đầu mình khiến cho máu chảy dòng dòng. Lúc giận mình tưởng như phải bỏ cuộc anh Quyết đã khuyên:” không học chữ thì làm sao làm cách mạng được”. Vậy là tinh thần cách mạng đã thôi thúc quyết tâm học chữ của Tnú. Vẻ đẹp của Tnú đặc biệt được thể hiện ở việc làm tiếp tế cho cách mạng. Khác với những đứa trẻ khác, Tnú luôn xe rừng vượt thác mà đi. Bằng sự thông minh và tài chí đã sớm dạy cho Tnú hiểu những chỗ đi dễ dàng rất dễ gặp phục kích. Và thế là Tnú:” không đi chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên như thác băng băng như một con cá kình”. Câu văn giàu hình ảnh so sánh ấy đã cho ta thấy cá tính mạnh mẽ của chàng trai lớn lên từ núi rừng. Trong một lần không may bị giặc bắt:” Tnú nuốt vội lá thư” và khắc sâu lời cụ Mết dạy:” Đảng còn núi nước này còn”. Chúng bắt và tra hỏi anh cộng sản ở đâu? Anh đặt tay lên bụng đầy kiêu hãnh “cộng sản ở đây”. Và lập tức người vằn ngang vằn dọc vết chém của kẻ thù. Dù vậy chúng không thể khuất phục được anh, đói chính là tính cách của người anh hùng “ uy vũ bất đăng khuất”.

Cuộc đời của Tnú điển hình cho con đường đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Qua cuộc đời anh ở giai đoạn này để làm sáng tỏ chân lí :” chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Khi trưởng thành là lúc Tnú vượt ngục trở về với dân làng và lãnh đạo dân làng tiếp tục chiến đấu. Khi trở lại làng anh trở thành một chàng trai hoàn hảo. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn nồng căng sự sống với hai cánh tay khỏe khoắn, chắc như lim, chứa đầy trong bọ ngực rộng rãi của anh là sứ mạnh mênh mông man dại của đại ngàn. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ thời Đăm Săn. Tính cách của anh bướng bỉnh kiêu hãnh là tính cách của Tây Nguyên dữ dội, quyết liệt. Anh đã trở thành đội trưởng đội du kích làm cho bọn giặc phải khiếp sợ kinh hoàng:” con cọp đó mà không giết sớm nó làm loạn núi rừng này rồi”.

Bi kịch của Tnú cũng là bi kịch chung của dân làng Xô man khi chưa dùng vũ khí. Sau khi trở về làng Tnú gặp lại Mai, họ đã có mối tình đẹp nên vợ nên chồng. Tnú được sống với người mà mình yêu thương và có đứa con đầu lòng. Tưởng như đó là cái kết tốt đẹp cho những gian khổ mà Tnú phải trải qua, nhưng ai đó đã từng nói:” còn thằng Mĩ sẽ không ai có được hạnh phúc cả”. Cuộc đời của Tnú cũng vậy, nếu như ở đoạn đời trước của anh người đọc cảm phục với sự gan dạ dũng cảm kiên cường, thì đến đây câu chuyện cụ Mết kể cho lũ làng nghe về cuộc đời Tnú khiến chúng ta không khỏi bàng hoàng trước nỗi đau quá lớn mà anh phải chịu. Chuyện bắt đầu từ khi anh Quyết hy sinh Tnú trở thành đội trưởng đội du kích làng Xô man, sức ảnh hưởng của anh đến phong trào cách mạng khiến bọn chúng phải khiếp sợ, chúng đưa quân về bao vây làng nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy. Để truy tìm Tnú chúng đã dùng đến hành vi hèn hạ dã man:” bắt được con cọp cái và cọp con tất dụ được con cọp đực trở về”. Vì thế vợ con anh bị bắt và tra tấn bằng gậy sắt, làm cho người sản phụ mới sinh và đứa con chưa đầy tháng tuổi phải chết gục. Đau đớn thay tất cả sự việc kia đều diễn ra ngay trước mặt Tnú, anh đúng gần đó và chứng kiến:” anh nấp sau gốc cây vả, tay dứt hàng 10 quả vả mà không hay”. Chứng kiến cảnh vợ con bị đánh cho tới chết, nhưng anh không thể ra bởi nếu anh bị bắt sẽ ảnh hưởng đến cách mạng. Nhưng khi chứng kiến đứa con thét lên một tiếng và chết trong tay mẹ trong anh lúc này chỉ còn lòng hận thù và đau đớn. Nỗi đau ấy đã khiến mắt anh thành:” hai cục lửa lớn”, bởi nỗi đau và lòng căm thù. Anh thét lên dữ dội và lao vào lũ giặc để cứu vợ con. Nhưng anh cứu làm sao nổi vì anh chỉ có hai bàn tay không.”ừ Tnu không cứu được mẹ con Mai” tác giả đã lặp đi lặp lại câu của cụ Mết về nỗi đau của anh như một điệp khúc đau thương đầy ám ảnh day dứt. Tnu không cứu được vợ con cũng không bảo vệ được chính bản thân mình anh đã bị giặc bắt, chúng dùng nhựa xà nu tẩm vào giẻ:” quấn vào 10 đầu ngón tay của Tnú”, “ một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3 ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc”. Đây là một hình ảnh vô cùng sáng tạo không dễ sinh ra hai lần trong một cuộc đời viết văn. Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy tố cáo tội ác dã man của quân giặc, chúng thâm hiểm độc ác đã đốt và mười đầu giây thần kinh nhạy bén của con người. Lửa cháy trên 10 đầu ngón tay của anh lại là nhựa xà nu- thứ nhựa xà nu ngọt ngào như đọng nắng quê hương đã trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã từng chăm sóc nó. Đồng thời hình ảnh này cũng cho bạn đọc thấy được  lòng gan trường dũng cảm của Tnú đối với cách mạng. Lửa có thể cháy trên 10 đầu ngón tay, nhưng không thể thiêu cháy được ý chí căm thù giặc của Tnú. Anh đang bị cháy ở 10 đầu ngón tay, nhưng :” anh nghe như đang cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Mà đau đớn đến mức răng anh cắn nát môi anh. Với bản lĩnh kiên cường bất khuất của người cộng sản, anh không thèm kêu, anh nhớ lời của anh Quyết:” người cộng sản không thèm kêu van”. Anh ngã xuống rồi ngất đi, thét lên tiếng thét căm hờn của núi rừng “giết”.

Vậy là qua bị kịch của Tnú và cả gia đình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nêu cho chúng ta đâu là nguyên nhân của những bị kịch ấy: anh đã có tất cả tình yêu của gia đình, tình yêu đất nước, lòng căm thù quân giặc, tinh thần bất khuất kiên cường nhưng tại sao anh lại thất bại? Tác giả đã để cho lịch sử phán truyền qua lời cụ Mết:” Tnú không cứu được mẹ con Mai vì mày chỉ có hai bàn tay trắng” dù có thương Tnú đến đâu thì cụ Mết vã dân làng Xô man cũng không thể cứu anh:” tau không nhảy ra cứu mày vì tau cũng chỉ có hai bàn tay không”. Và từ đó nhà văn cho thấy hậu quả sẽ như thế nào khi kẻ thù đã cầm súng mà mình chưa cầm giáo? Câu chuyện về cuộc đời Tnú chỉ có một mình tay không xông vào giữa kẻ thù thì ngay cả thứ nhựa xà nu thân thiết cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt. Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho quy luật nghiệt ngã đó. Và từ đó cụ Mết cũng ghi tạc chân lí:” chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Sau tiếng thét của Tnú đầy căm hờn là tiếng nói của cụ Mết như sấm dậy vang truyền cả núi rừng:”chém, chém hết…thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên”. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử” có áp bức phải có đấu tranh”. Bằng hình tượng nghệ thuật của mình nhà văn đã cho ta thấy khi chúng ta cầm giáo mác để đứng lên chống lại kẻ thù là súng đạn sẽ phải thay đổi. Lúc này ngọn lửa đã tắt trên 10 đầu ngón tay của Tnú. Những ngọn đuốc xà nu soi xác 10 thằng giặc nằm ngổn ngang và Tnú được cứu sống. Những thằng giặc gian ác cũng phải trả giá bằng tính mạng của mình.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt thành công khi đưa chi tiết bàn tay Tnú để làm lên hình tượng nhân vật. Đây là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa tư tưởng lớn lao. Từ hình ảnh này ta thấy hiện lên cuộc đời và tính cách của nhân vật. Bàn tay của Tnú khi còn lành lặn là bàn tay trung thực tình nghĩa, bàn tay cầm phấn viết chữ mà anh Quyết dạy cho, bàn tay cầm đá đập vào đầu để trừng phạt thói hay quên khi học, bàn tay đặt lên bụng và nói” cộng sản ở đây này”, nó còn là bàn tay lao động và gây dựng phong trào cách mạng. Lúc Tnú thoát ngục Kon Tum trở về gặp Mai ở đầu rừng núi vào làng, Mai cầm hai bàn tay Tnú mà giàn giụa nước mắt. Đó là bàn tay của sự yêu thương của tình yêu với những kỉ niêm chân tình. Không chỉ vậy bàn tay ấy đã cầm súng đi bắn giặc, bàn tay chở che cho mẹ con Mai, bàn tay lên núi Ngọc Linh lấy đá. Vẫn hai bàn tay ấy nhưng bị quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt. Mười ngón tay trở thành mười ngọn đuốc, đã thiêu đốt gan ruột và hệ thần kinh của anh. Mười ngọn đuốc trên mười ngón tay ấy đã châm bùng ngọn lử cách mạng, ngọn lử nổi dậy của dân làng Xoman. Bàn tay của Tnú đã được dập lửa nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt, ngón tay anh không thể mọc lại. Bàn tay cụt đó như chứng tích đầy căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, ghi lại những tội ác tàn bạo dã man của kẻ thù. Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo cầm súng được và Tnú đã lên đường đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đế cuối chuyện bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện, dùng đôi bàn tay cụt đốt ấy anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó. Soi ánh đèn pin vào mặt nó để nó nhìn rõ đôi bàn tay trừng phạt của anh, đôi bàn tay quả báo. Mặc dù còn hai đốt nhưng đôi bàn tay ấy đã đem lại chiến thắng.

Tác phẩm” Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Trong tác phẩm sử dụng bút pháp sử thi một cách nhuần nhuyễn mang ý nghĩa biểu tượng cho cộng đồng, sức mạnh, vẻ đẹp và những đau thương mất mát của con người Tây Nguyên “sau này tau chết rồi phải kể cho con cháu về Tnú”. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật nói ít nhưng bộc lộ một cách trực tiếp thẳng thắn. Những hành động trong chuyện thì quyết liệt mạnh mẽ và dứt khoát. Tnú hiện lên qua lời kẻ của cụ Mết bên cạnh bếp lửa, nó cho ta thấy vẻ đẹp của anh hùng thoại dũng sĩ thời xưa.

Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công nhân vật Tnú vừa mang vẻ đẹp trữ tình và những tư tưởng của tác giả muốn gửi gắm. Không những vậy vẻ đẹp của Tnú còn có tính sử thi và thời đại lúc bấy giờ. Qua nhân vật này tác giả đã thể hiện được  thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 3

Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, Đà Nẵng. Có thể nói: Mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống đấu tranh bất khuất đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhà văn.  Rừng xà nu là một trong số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là T nú.

Bằng ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật T nú hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại. Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra T nú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc.

Cuộc đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Cho dù dưới những cuộc chiến tàn khốc của đại bác và bom đạn của giặc mỹ, những cây xà nu bị cưa ngang thân nhưng ở dưới chúng những cây con lại bắt đầu nhú lên nhọn hoắt. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu – T nú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra.

Ngôi Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù “ Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười…Đắng cay hơn,khi chính mắt anh phải nhìn phải chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay… đớn đau thấy cảnh tượng nhìn người thân mình chịu đòn roi của chính kẻ giặc, rồi T nú cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây dựng làng chiến đấu.

Nhân vật Tnú có những nét tính cách tiêu biểu .Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có tính kỷ luật cao. Từ lúc còn nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để cảnh cáo. Tnú đi liên lạc “thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình – nói “Cộng sản ở đây”. Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Và hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú,anh có thể làm tất cả mọi thứ dù hi sinh và cái chết đang đợi mình. Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng.

Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp. Tnú từ nhỏ đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai.Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân của bọn giặc man rợ.

 Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa, gắn bó với cách mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ.

 Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Dân làng là những ngươi đùm bocjanh chính vì thế sau này khi lớn lên khi am hiểu hơn thì anh có thể làm mọi thứ để cứu lấy dân làng của mình. Được nghỉ phép một ngày mà vừa tới đầu làng anh đã cảm nhận được mọi thứ thân thuộc.anh là người giữa tình cảm trọng tình nghĩa, gắn bó với cách mạng và quê hương. Chính bản tính gan góc của anh đã khiến cho tinh thần chiến đấu thêm gan dạ,kiên cường giống như hình ảnh của những cây xà nu.

 Mỗi khi chúng ta nhắc đến T nú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa đó là tay T nú- bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác… và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả.  Hình ảnh nữa là hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Trải qua bao nhiêu khốc liệt bao nhiêu trận đánh và chứng kiến bao cảnh chết chóc,bàn tay ấy tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù.

Tác phẩm”Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam. Song song với anh là những nhân vật mang tính nguồn cội như cụ Mết hay những thế hệ tiếp nối như Dít. Câu chuyện và tinh thần bất khuất kiên cường ấy vẫn mãi bùng cháy trong mỗi con người dân Tây Nguyên.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 4

Nguyễn Trung Thành, sinh năm 1932 tại Quảng Nam là nhà văn gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên. Truyện ngắn này được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè năm 1965. Đó là thời kì Mĩ đổ quân ào ạt với miền Nam nước ta. Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung –  Trung Bộ (1965), sau đó in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Trong truyện ngắn Rừng xà nu, tác giả đã khắc họa hình tượng nhân vật Tnú đầy sinh động, cụ thể chủ yếu bằng bút pháp lí tưởng hóa vối cảm hứng ngợi ca, khẳng định. Đây là một anh hùng vừa mang dấu ấn thời đại vừa gắn bó, tiêu biểu cho một tập thể anh hùng vừa mang dáng dấp sử thi huyền thoại vừa đậm chất Tây Nguyên.

Truyện kể về phong trào nổi dậy của dân làng Xô Man ở Tây Nguyên. Nhân vật trung tâm của tác phẩm Rừng xà nu là Tnú. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được dân làng đùm bọc, cưu mang. Thuở nhỏ, Tnú đã cùng Mai vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú làm liên lạc rất giỏi, mưu trí và gan dạ. Trong một lần vượt sông để chuyển thư của anh Quyết lên huyện, Tnú bị giặc bắt, tra tấn rất dã man. Ba năm sau, Tnú vượt ngục Kon Tum trở về làng, anh Quyết đã hi sinh, Tnú thay anh lãnh đạo dân làng đánh giặc. Bọn giặc lùng anh không được, chúng bắt vợ con anh và đánh đập và tra tấn hết sức dã man. Không chịu được cảnh thương tâm ấy, anh đã xông ra để cứu vợ con nhưng thất bại. Anh bị bắt, bị đốt mười ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa xà nu nhưng anh không hề kêu van. Dân làng Xô Man, dưới sự chỉ huy của cụ Mết đã nổi dậy tiêu diệt tiểu đội giặc và cứu sống Tnú. Tuy mỗi ngón tay chỉ còn hai đốt,nhưng Tnú vẫn quyết tâm tham gia bộ đội giải phóng. Nhân dịp trở về thăm làng, cụ Mết đã nhắc lại câu chuyện đời anh cũng như đêm nổi dậy hào hùng của dân làng Xô Man cho mọi người nghe. Như đã nói, Tnú có hoàn cảnh xuất thân rất đặc biệt: mồ côi cha mẹ, anh lớn lên trong tình yêu thương, đùm bọc của dân làng Xô Man, có tấm lòng trong sạch, tâm hồn tươi sáng theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Khi trưởng thành, anh giữu vai trò quan trọng đối với dân làng Xô Man, có sức mạnh uy hiếp kẻ thù (biểu hiện qua lời nói của thằng Dục: “Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm loạn rừng núi này rồi”). Trong quá trình tham gia cách mạng ở làng, anh bị địch bắt, trên lưng ngang dọc những vết dao chém. Đau xót hơn, anh phải chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn dã man đến chết, bản thân anh cũng bị bắt trói, bị giăc đốt mười ngón tay nên bị thương tật vĩnh viễn khi mỗi ngon tay đều mất đi một đốt đầu tiên.

Như mọi nhân vật được xây dựng để ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, điểm nổi bật của Tnú là sự gan góc, dũng cảm. Ngay từ nhỏ, khi được giác ngộ cách mạng, được học chữ, Tnú đã thể hiện quyết tâm học chữ bằng cách “cầm lấy một hòn, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Đi liên lạc cho anh Quyết, Tnú tỏ ra thông minh, nhanh nhẹ: “Tnú hay quên chữ nhng đi đường thì đầu nó sáng lạ lùng”. Đặc biệt, Tnú đã “xé rừng mà đi”, “không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Bị địch bắt, Tnú nuốt luôn lá thư như để bảo mật. Dù bị địch tra tấn dã man nhưng Tnú kiên quyết không khai báo để chứng tỏ sự trung thành với cách mạng, ý chí bất khuất trước kẻ thù của Tnú. Để Tnú và dân làng “bỏ mộng cầm giáo mác”; giặc đã đốt tay anh: “nó quấn dẻ (đã tầm dầu xà nu) lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây lửa. (…) Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón (…) lửa bắt rất  nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Đau đớn, “anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng (…) Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Nhưng anh vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, “không thèm kêu van”. Tiếng thét duy nhất của Tnú chính là hiệu lệnh thúc giục dân làng nổi dậy giết giặc.

Phẩm chất khiến nhân vật gây được nhiều xúc động trong người đọc chính là sự sâu nặng nghĩa tình. Chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra tấn dã man, đầy lo lắng, đau đớn, “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Căm thù tội ác của kẻ thù “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, bất chấp lời can ngăn của cụ Mết, anh vẫn “nhảy xổ vào giữa bọn lính để che chở cho vợ con: hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Ngày trở về làng, bàn tay anh đã vốc nước từ suối, từ máng nướ đầu làng. Lòng anh đầy xúc động khi để cho vòi nước của làng mình dội lên khắp người như ngày trước. Tình cảm với người thân, với quê hương chính là động lực thôi thúc Tnú sống mãnh liệt và chiến đấu mạnh mẽ.

Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú để rồi sau đó anh vượt lên nỗi đau riêng mà vào giải phóng quân đi chiến đấu vì độc lập tự do của buôn làng, của đất nước. Tính kỉ luật cao của người chiến sĩ cách mạng: ba năm xa nhà với bao nhung nhớ, nhưng phải có phép anh mới về và về đúng theo quy định. Trở về làng, Tnú đã kể cho dân làng nghe: trong một trận chiến đấu, đôi bàn tay thương tật của anh vẫn sẵn sàng giáng những đòn trừng phạt vào kẻ thù khi anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn bằng chính đôi tay ấy khi nó cố thủ trong hầm. Có thể nói, Tnú tham gia bộ đội với một nhận thức sâu sắc hơn: giết được giặc ở bất cứ nơi nào trên đất nước cũng là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc mà anh rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng, của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.

Tác giả đã khắc họa thành công hình tượng Tnú- một anh hùng vừa mang dấu ấn thời địa vừa gắn bó, tiêu biểu cho một tập thể anh hùng, vừa mang dáng dấp sử thi huyền thoại, vừa  đậm chất Tây Nguyên. Tnú là cây xà nu bất khuất, tiêu biểu cho sức mạnh, ý chí của cộng đồng dân tộc, cho số phận và hành động của con người Tây Nguyên. Trong chiến tranh, anh cũng là nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của nhân dân miền Nam thời chống Mĩ.

Tính sử thi của Rừng xà nu được thể hiện trên hầu hết các phương diện nội dung và nghệ thuật nhưng nổi bật nhất là ở đề tài – chủ đề, nghệ thuật trần thuật, xây dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ – giọng điệu trần thuật như đã nêu trên. Điều này đã khẳng định nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của tác giả (sáng tác thường mang đậm tình sử thi khi thường khai thác những đề tài có ý nghĩa lịch sử, đề cập đến vận mệnh của dân tộc, nhân dân) cũng như góp phần làm rõ một đặc điểm quan trọng có ý nghĩa về mặt thi pháp của văn học 1945-1975: văn học giai đoạn này chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

Không chỉ ngợi ca nhân vật trung tâm Tnú, Rừng xà nu còn là bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh vũ trang đồng thời của đồng bào các dân tộc miền núi và cũng là hình ảnh của cả đất nước trong kháng chiến chống Mĩ. Với lời văn trau chuốt, giàu hình ảnh, tác phẩm đã tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng của núi rừng, của con người và của truyền thống Tây Nguyên. Qua đó, khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại thời chống Mĩ này cũng đã khẳng định tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trung Thành – một nhà văn gắn bó máu thịt với vùng đất Tây Nguyên.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 5

Bất kể thời kỳ kháng chiến máu lửa nào, văn học Việt Nam cũng có những hình tượng anh hùng tuyệt đẹp. Từ thời giặc Ân xâm lược đã có Thánh Gióng rồi sang kháng chiến chống Pháp có người lính, những anh bộ đội cụ Hồ. Đến Tây Nguyên vào những năm khốc liệt của kháng chiến chống Mĩ chúng ta có T nú.

T nú là một nhân vật trung tâm của truyện ngắn "Rừng xà nu"- Nguyễn Trung Thành. Truyện ngắn được viết vào mùa hè năm 1965 giữa lúc đé quốc Mĩ thực hiện "chiến tranh cục bộ" ở nước ta. Chúng lê máy chém đi khắp nơi, thực hiện những cuộc càn quét đẫm máu. "Rừng xà nu " là một hịch tướng sĩ của thời kỳ ấy.Nổi bật của truyện là hình tượng cây xà nu, cánh rừng xà nu,và cuộc sống của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống quân thù. T nú là nhân vật tiêu biểu cho số phận, con đường chiến tranh của làng Xô Man.

Về nhân vật T nú của truyện, toàn bộ vẻ đẹp của anh đều được thể hiện qua lời kể của cụ già Mết. "Nó đấy! Nó là người làng Stra mình.  Cha mẹ nó mất sớm, làng Xô Man này nuôi nó". Dù mồ côi cha mẹ, lớn lên nhờ sự đùm bọc của dân làng nhưng T nú luôn ánh lên những vẻ đẹp và phẩm chất nổi bật. Theo già Mết "đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta". Và trước hết, Tnu là người có tính gan góc dũng cảm và mưu trí. T nú còn nhỏ sớm đến với cách mạng trong những ngày chiến đấu gian khổ nhất. Lúc bấy giờ, bọn giặc luôn tìm đủ mọi cách để săn lùng, tiêu diệt cán bộ Đảng của ta. Chúng bắt anh Xút treo đầu lên cây vả đầu làng, bắt bà Nhan chặt đầu treo đầu súng. Nhưng T nú vẫn không sợ, vẫn ngày ngày cùng Mai vào rừng nuôi giấu cán bộ Quyết. "Để cán bộ ngủ ngoài rừng một đêm, bụng dạ không yên được". Khi được anh Quyết dạy chữ, T nú học chậm hơn Mai nhưng lại hay nổi nóng, đến khi thua Mai thì "đập bể cái bảng nứa","bỏ ra ngoài suối ngồi suốt ngày", anh Quyết và Mai dỗ mấy cũng không chịu về. T nú "lấy một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng". Tnu hay quên chữ "nhưng đi đường núi đầu nó sáng lạ lùng". Tnu làm liên lạc cho anh Quyết từ xã về huyện. "Không bao giờ nó đi đường mòn", "leo lên cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi". Qua sông T nú "không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh nhất mà bơi ngang, rượt lên trên mặt nước, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình". Bởi lẽ T nú cho rằng đó là những chỗ mà giặc không ngờ tới: "qua chỗ nước êm thằng Mĩ-Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ". Khi bị giặc phục kích, "họng súng của thằng phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt', "T nú chỉ kịp nuốt luôn cái thư". Rồi T nú bị giặc bắt và tra tấn dã man, "lưng ngang dọc những vết dao chém". Chúng tra khảo anh, hỏi cộng sản ở đâu, T nú chỉ tay vào bụng mình nói "cộng sản ở đây này". Quả là dũng cảm và gan góc kiên cường.

Không chỉ vậy, T nú còn là người có tính kỉ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng. T nú tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương, giấy phép cho anh về một đêm, đúng sáng hôm sau anh lên đường.  Từ tính kỉ luật cao ấy đã nung nấu thành lòng trung thành tuyệt đối với cáh mạng. Khi bị đốt mười đầu ngón tay, T nú không kêu nửa lời. Bởi anh luôn tâm niệm lời của anh Quyết :"Người cộng sản không thèm kêu van.." mặc dù "răng anh đã cắn nát môi anh rồi". Anh còn luôn ghi nhớ câu nói của cụ Mết "cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn". Cũng bằng tính kỉ luật ấy mà anh đã là một người chiến sĩ tuyệt vời trong mắt dân làng Xô Man.

Ngoài ra, trong anh còn là một trái tim đầy yêu thương và sục sôi căm giận. Trái tim anh đầy yêu thương được thể hiện qua nhiều phương diện khác nhau. Đối với vợ con, anh là một người cha đầy trách nhiệm. "Không đi Công Tum mua vải được, T nú xé tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho Mai địu con. Khi chứng kiến cảnh mẹ con Mai bị đánh đập, anh đã bứt hết trái vả mà không hay. "Hai mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn", tay không mà anh vẫn xông vào xô ngã bọn giặc. Đối với buôn làng, anh sống rất tình nghĩa. Từng gốc xà nu, từng gương mặt của người dân luôn ở trong tâm trí anh. Anh luôn sống sao cho xứng đáng với dân làng Xô Man, với cụ Mết để truyền dạy thế hệ mai sau. Còn về sự căm giận của anh được thể hiện qua nhiều mối thù. Thù của riêng anh, thù của gia đình, thù của buôn làng. Đặc biệt nhất thể hiện toàn bộ con người anh chính là hình ảnh đôi bàn tay T nú. Một chi tiết chọn lọc đắt giá để tái hiện cả cuộc đời và tính cách con người anh. Đôi bàn tay ấy khi còn nguyên vẹn là để cầm phấn nắn nót học chữ, là để lấy đá tự đập đầu khi thua Mai, là để chỉ tay vào bụng mình khi bị giặc tra khảo hay là để nắm lấy tay Mai nước mắt giàn giụa khi vượt ngục Công Tum trở về. Khi bị giặc tra tấn, mười đầu ngón tay của T nú là mười ngọn đuốc thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh. Khi đã trở nên thương tật, đôi bàn tay ấy lại lập công bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong hầm cố thủ. Kẻ thù đã đốt mười đầu ngón tay của T nú ngăn chặn mộng cầm giáo, thì chính đôi bàn tay ấy lại giết chết kẻ thù. 

 Ý nghĩa đặc biệt nhất về nhân vật T nú đó chính là anh là tiêu biểu cho con đường đấu tranh cách mạng của dân làng Xô Man, làm sáng tỏ tư tưởng của thời đại. Khi chưa cầm vũ khí có bi kịch lớn, T nú không cứu được vợ con vì anh chỉ có đôi bàn tay mà không hề bất cứ có vũ khí nào cả, anh cũng không bảo vệ được bản thân mình, uối cùng bị đốt mười đầu ngón tay. Và dân làng chỉ cứu được anh khi có vũ khí đứng lên. Nó đã tạo ra một chân lý "dùng bạo lực để chống lại bạo lực" đúng như cụ Mết đã nói "chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo". 

Tóm lại, ở T nú là một tâm hồn vô cùng cao đẹp. Với thủ pháp hình tượng hóa, xay dựng tuyến nhân vật đậm chất sử thi, Nguyễn Trung Thành đã phác họa thành công nhân vật T nú. Tác giả đã tạo ra được nhân vật trung tâm của tác phẩm. Có lẽ truyện ngắn hấp dẫn người đọc cũng vì lí do ấy.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 6

Truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ông đã thành công khi xây dựng nhân vật chính là Tnú- một chàng trai Tây Nguyên sâu nặng nghĩa tình, một con người gan góc dũng cảm như cái tên của anh (T nú tiếng Bana có nghĩa là chàng dũng sĩ), đồng thời là điển hình cho con đường đến với cách mạng (CM) của dân tộc Tây Nguyên (TN).

T nú “chàng dũng sĩ” vốn là một đứa trẻ sớm mồ côi của làng Xôman. Tnú sẽ không có cuộc đời của mình nếu không có sự cưu mang đùm bọc của nhân dân làng Xôman. Làng Xôman cho Tnú tình thương yêu, dạy cho Tnú biết đi, biết nói, biết yêu ghét, biết cầm dao chặt cây làm rẫy, …Tnú nợ dân làng Xôman tất cả cuộc đời. Như một cây xà nu non dại lớn lên giữa sự che chở, đùm bọc của rừng xà nu, Tnú trở thành một cậu bé rồi một chàng trai Tây Nguyên khỏe mạnh, dũng cảm như hình ảnh những chàng trai TN vẫn được nhắc đến trong truyện kể bên bếp lửa nhà rông.

Thuở nhỏ anh đã là một đứa bé có cá tính, dũng cảm và mưu trí. Cùng với Mai, người bạn gái nhỏ của mình, Tnú vượt qua mọi vòng vây của kẻ thù để mạng gạo muối tiếp tế cho CM trong rừng. Tình yêu làng và CM đã cho Tnú lòng dũng cảm để không biết sợ hãi trước quân thù .Tnú ước ao trở thành người CM. Đó là cách tốt nhất, cách duy nhất vào lúc này để bảo vệ những gì mà cậu bé yêu thương. –  Một cử chỉ thật ngây thơ đến buồn cười nhưng chứa đựng một ý nghĩa thật nghiêm túc và cảm động: bực bội vì cố học mà vẫn không nhớ được chữ, Tnú đã đập đến chảy máu đầu mình mà T nú thấy nó ngu quá. Khát khao cách mạng đến thế là cùng!

Khao khát sống để trả cái ơn sâu nặng cả cuộc đời cho làng Xôman, Tnú cũng khao khát bảo vệ cách mạng, tình cảm ấy thật hông nhiên và cũng thật mãnh liệt nơi Tnú.  Với bản chất nhanh nhẹn, mưu trí của một cậu bé quen đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống, Tnú càng nhanh nhẹn mưu trí trong việc bảo vệ CM. Khi làm liên lạc T nú luôn xé rừng mà đi với “cái đầu sáng lạ lùng”, lội qua chỗ nước chảy mạnh để tránh phục kích của kẻ thù “vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình ”.Khi bị bắt T nú nuốt luôn lá thư và kiên quyết bảo vệ bí mật CM.

Bước từ tuổi niên thiếu lên tuổi trưởng thành, Tnú là một chàng trai trưởng thành cả về thể chất lẫn tâm hồn. Tnú rắn rỏi, cường tráng, Tnú cũng thực sự giác ngộ CM. Trở thành chồng Mai rồi thành cha của một đứa con nhỏ, Tnú càng gắn bó với làng, gắn bó với CM.

Biết vượt qua bi kịch cá nhân và lòng căm thù giặc càng tăng khi chứng kiến cảnh vợ con bị giết hại dã man. Thật là một  thử thách ghê gớm đối với Tnú khi từ trong rừng xà nu phải chứng kiến cảnh giặc bắt bớ, khảo tra người làng Xôman trong đó có Mai- vợ anh và đứa con nhỏ cô mang trên người. Tnú phải nắm chặt lấy cây rừng để khỏi xông ra khi những cây sắt của bọn lính quật vào người Mai. Tuy vậy, cái gì cũng có giới hạn, đặc biệt là sự kiên nhẫn phải ghìm lại nỗi phẩn uất chính nghĩa của con người. Khi những cây sắt mạn rợ quật trúng vào thân hình đứa bé mà Mai đã hết sức giữ gìn, thì không có gì có thể giữ được Tnú.  Bị trói chờ hành hình, anh vẫn bình thản lạ lùng  và chỉ nghĩ cho CM “ …ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xoman đánh giặc…chỉ tiếc cho T nú, T nú không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng”.

Tnú bị bọn lính bắt được. Chúng tra tấn anh bằng mọi cực hình khủng khiếp: tẩm nhựa xà nu lên mười ngón tay Tnú rồi đốt. Không them kêu la một tiếng, Tnú mở mắt trừng trừng nhìn mười ngón tay mình rừng rực cháy như mười ngọn đuốc. Chỉ đến khi nỗi đau đớn đã thấm đến tận cùng gan ruột, trước khi ngất đi Tnú mới thét lên một tiếng. Tiếng thét của Tnú đã trở thành một lời kêu gọi mạnh mẽ cho trai làng Xôman xông vào tiêu diệt kẻ thù.

Hình ảnh bàn tay T nú mang ý nghĩa độc đáo trong bản anh hùng ca của tác. Bàn tay anh hùng được khắc họa đậm nét sử thi.  Bàn tay lành: nghĩa tình, trung thực và đầy kĩ niệm, bàn tay dắt Mai lên rẫy, giấu gạo nuôi CM, viết chữ, bàn tay bảo vệ vợ con…  Bàn tay bị đốt: bàn tay căm thù giặc suốt đời, thể hiện lòng trung thành với CM, bàn tay tuy tàn mà không phế, bàn tay ấy cầm súng để bảo vệ những người mà anh mang nợ yêu thương.

Trở lên trên là cá tính cũng như tinh thần dũng cảm của T nú. Ngoài ra T nú còn là một người trung thành với cách mạng và kỉ luật cao. Thuở nhỏ khi làm liên lạc, T nú bị bắt  anh nuốt luôn lá thư vào bụng và tra tấn nhưng anh vẫn không hề khai một lời nào. Giờ khi trưởng thành ý thức đó lại càng củng cố và phát triển. nó trở thành ý thức chấp hành kỉ luật của anh.  T nú  nhớ nhà, quê hương anh chỉ về thăm khi cấp trên cho phép và về đúng một đêm theo qui định.

Trở về cuộc sống đời thường, T nú lại là một chàng trai Tây Nguyên sâu nặng nghĩa tình. Nói như cách nói của cụ Mết: “Cái bụng Tnú trong như nước con suối chảy qua làng Xôman”. Tnú gắn bó với cách mạng, yêu thương cán bộ cách mạng cũng tự nhiên như người ta uống dòng nước từ trong nguồn núi. Tnú yêu những gì, những ai mà người làng Xôman yêu bới chắc chắn đó phải là điều tốt, người tốt.

Trong cuộc sống đời thường, T nú còn là người chồng, người cha giàu lòng yêu thương. Khi thấy vợ con bị tra tấn, T nú không kiềm chế được căm giận “ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”; “ Một tiếng hét dữ dội. T nú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính”. Chính lòng yêu thương vợ con  đã khiến T nú không còn tự chủ nhảy vào che chở cho vợ con “Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”.

Cuộc đời bi tráng và con đường đến với CM của T nú điển hình cho con đường đến vớ CM của người dân Tây Nguyên, góp phần sáng tỏ  Chân lí thời đại: phải dùng bạo lực Cm để tiêu diệt bạo lực phản Cm . Đấu tranh vũ tranh là con đường tất yếu để tự giải phóng.

Hình tượng rừng xà nu và T nú có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Rừng xà nu chỉ giữ được màu xanh bất diệt khi có những con người biết hi sinh như T nú; sự hi sinh của những con người như T nú góp phần làm cho những cánh rừng mãi mãi xanh tươi.

Tnú là một con người nhỏ bé giản dị như bao người nhỏ bé và giản dị của làng Xôman. Tnú là đứa con của làng Xôman, của miền đất Tây Nguyên bát ngát. Tuy vậy, trong những nét bình dị của Tnú ta lại thấy một chất huyền thoại thấp thoáng từ đầu đến cuối câu chuyện. Bất kì cuộc chiến đấu chính nghĩa nào cũng sản sinh ra huyền thoại, huống chi một cuộc chiến đấu như cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân VN. 

“Rừng xà nu” mang đậm chất sử thi. Chất sử thi ấy có trong nhan đề tác phẩm, có trong hình tượng cây xà nu bất khuất kiên cường và trong cuộc đời T nú.

Gấp trang truyện người đọc mãi còn thích thú và cảm động về một nhân vật Tnú mang đầy nét sử thi.

“Rừng xà nu” ra đời rất sớm khi cuộc đấu tranh CM chống Mĩ- Ngụy vừa mới bắt đầu ở miền Nam và như một ngọn lửa góp vào cuộc đấu tranh ấy, đến nay, sau hơn 40 năm, tác phẩm và nhân vật của Nguyễn Trung Thành vẫn còn để lại một dấu ấn sâu đậm trong nền văn xuôi VN hiện đại.

Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành – Bài làm 7

Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết.

Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám “cầm đá tự đập vào đầu máu chảy ròng ròng khi học cái chữ không thuộc” bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”.Mặc cho những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ, Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây là nét hơn hẳn mà nhân vật A Phủ trong “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài chưa có.

Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần nữa anh đã đi ba ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.

Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi theo cách mạng, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….không mọc lại được”.Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới nòng súng tàn bạo của ch

0