25/05/2017, 00:58

Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Văn mẫu lớp 9

Đánh giá bài viết Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Nam Định Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện “ Cố hương" là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình ...

Đánh giá bài viết Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Nam Định Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện “ Cố hương" là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình quê vơi đầy. Nó ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con ...

Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Nam Định

Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện “ Cố hương"  là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình quê vơi đầy. Nó ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng.

Các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hai Dương – là những con người của quê hương, gợi ra bao nỗi buồn vui về nơi chôn rau cắt rốn sâu nặng nghĩa tình.

1. Hình ảnh quê hương

Sau 20 năm xa cách “tôi” về thăm quê. Phải vượt qua 2000 dặm giữa một mùa đông lạnh giá. Lòng “tôi” bồi hồi khôn xiết. Gió lạnh vi vu thổi vào khoang thuyền. Gần về đến làng, trời càng u ám, xóm thôn xa dần, thấp thoáng tiêu điều, hoang vắng… lòng “tôi" se lại,  về quê thì phải vui sao lại buồn? “Tôi” tự hỏi có phải đây là làng cũ thân yêu trong ký ức nữa không?

Chuyến về thăm quê này rất đăc biệt, về để bán nhà, giao nhà lại cho chủ mới. Về để từ giã ngôi nhà cũ – nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Sao không buồn đươc, vì sau 20 năm đi xa, lần này “tôi" trở về là để “vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn sinh sống”.

Quê hương thường gắn liền với phần mộ tổ tiên ông bà. Trong "Cố hương"  không thấy nói đến. Tác giả chỉ xúc động nói đến ký ức tuổi thơ khoảng chừng 30 năm về trước. Một tình bạn đẹp tuổi thơ độ lên mười với Nhuận Thổ – con trai của một người làm thuê cho gia đình "tôi”. Nhờ Nhuận Thổ mà “tôi” được biết bao chuyện kỳ lạ: cách bẫy chim trên tuyết, con "tra"  lông da trơn như mỡ biết ăn dưa; bên bờ biển quê hương có nhiều vỏ sò đẹp và lạ: sò “mặt quỷ” và sò “tay Phật". Nhờ Nhuận Thổ mà tôi cảm nhận được vẻ đẹp quê hương, với bao cảnh tượng thần tiên: "Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn”.

Quê hương cũ với bao kỷ niệm thời thơ bé. Đó là những ngày mà “thầy tôi hãy còn", cảnh nhà sung túc… năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cúng rất đông… ,

Quê hương trong ký ức bao giờ cũng cảm động. Lỗ Tấn đã nói về hình ảnh quê hương trong hiện tại và trong quá khứ, lúc ở trên đường trở về, lúc gặp lại bạn cũ, người xưa. Có niềm vui nỗi buồn, 30 năm đã trôi qua, nhưng không bao giờ có thể quên được quê hương và tuổi thơ.

2. Hình ảnh người mẹ quê nhà

Mẹ đã già. " Tôi” đã trưởng thành, đi làm ăn xa, lưu lạc 20 năm trời nay mới về thăm quê, thăm mẹ. Lâu nay chỉ “gặp mẹ" và hỏi thăm mẹ qua nhũng cánh thư. Con vừa bước vào nhà, mẹ “đã chạy ra đón". Mẹ già “rất mừng rỡ'’ gặp lại con trai sau những năm dài xa cách, thế nhưng "nét mặt vẫn ẩn nỗi buồn thầm kín”. Chắc là mẹ buồn vì thương nhớ người đã khuất, mẹ buồn vì cảnh nhà sa sút, phải bán nhà, theo con trai đến nơi đất khách quê người? Mẹ vẫn hiền hậu, săn sóc “tôi” như ngày "tôi” còn thơ bé: “Mẹ bảo tôi ngồi xuống nghỉ ngơi, uống trà…".

Mẹ nói với con trai chuyện dọn nhà… Mẹ vẫn hiền từ như xưa: “Con hãy nghỉ  ngơi vài hôm, đi thăm các nhà bà con một chút rồi mẹ con mình lên đường ”. Nhắc đến Nhuận Thổ… “Mẹ tôi” động lòng. Gặp 2 bố con Nhuận Thổ, mẹ ân cần vồn vã. Mẹ thở than cho cảnh nhà anh ta, mẹ bàn với "tôi": "Cái gì không cần chở đi thì cho anh ta hết. Cứ để cho tùy ý chọn, lấy cái nào thì lấy!”. Thương con cháu và thương người đó là hình ảnh người mẹ trong Cố hương.

Có một nhà thơ trẻ Việt Nam đã viết: “Quê hương là cầu tre nhỏ – Mẹ về nón lá nghiêng che”. Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, nếu ai đó không hiểu được người mẹ thì làm sao cảm nhận được hình ảnh quê hương thân yêu. Bởi lẽ mẹ là quê hương, quê hương là mẹ! Tình yêu quê hương luôn luôn gắn liền thiết tha với người mẹ hiền mà ta yêu quý.

3. Con người quê hương

Nhuận Thổ trước hết là tình bạn tuổi thơ. Ba mươi năm trước, “tôi” và Nhuận Thổ đã sống với nhau trong suốt một tháng giêng mà suốt đời “tôi" không thể nào quên được. Hình ảnh hắn thuở lên 10, lần đầu gặp tôi: "Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng…'. Hắn “bẽn lẽn” với mọi người, nhưng “không bẽn lẽn” với chỉ riêng tôi. Hắn nói lên tỉnh, hắn được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như "tôi” nghe hắn nói chuyện bẫy chim sẻ, chuyện cầm đinh ba đâm con “tra” khi đi canh dưa, chuyện vỏ sò, vỏ ốc, v.v… là những chuyên lí thú, kỳ lạ. Ba mươi năm rồi, “tôi” nhớ đến Nhuận Thổ là nhớ đến gói quà hắn gửi cho tôi: một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp.

Không có tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn tuổi thơ làm cho tình yêu quê hương mãi mãi tươi thắm. Đúng như Lỗ Tấn đã viết: "Bây giờ mẹ tôi nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm  được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi. Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh quê hương, là   “vành trăng non trên bầu trời xanh miền thơ ấu”. Nhuận Thổ là một phần rất nhỏ của Cố hương, là tình yêu quê hương.

Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, nỗi buồn về quê hương. Sau 30 năm xa cách nay găp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da “vàng xạm”, những nếp nhăn trên mặt “sâu hóm”. Cặp mắt, mí mắt “viền húp đỏ mọng lên". Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một cái áo bông “mỏng dính" giữa lúc trời rét dữ! Người “co ro cúm rúm”, đôi bàn tay “vừa thô kệch, vừa nặng nề nứt nẻ như vỏ cây thông”. Thời gian đã tàn phá một con người về mặt ngoại hình. Sự nghèo khổ và vất vả làm tàn tạ một con người vốn cường tráng và dẻo dai. Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương” mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới “cung kính” nói được hai tiếng: “Bẩm ông!”. Lễ giáo và tôn ti trật tự của xã hội phong kiến đã tạo nên giữa đôi bạn “một bức tường khá dày ngăn cách". “Tôi” như bị “điếng người" khi nghe anh ta nói. Nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói “tôi” nặng trĩu trong lòng "trông anh ta phảng phất như một pho tượng đá” vô hồn và vô cảm.

Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là hình ảnh một xứ sở, một miền quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị bần cùng hóa, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy: "mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào…”, “chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả”.

Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối cùng của “tôi", thông qua những rung cảm của “tôi" trước sự thay đổi, tàn tạ ghê gớm của làng quê, đặc biệt là Nhuận Thổ, tác giả đã lên án tội ác của chế độ phong kiến đối với nông dân, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của nhân dân trên con đường đi tới.

Nói đến con người quê hương trong Cố hương không thể nào không nhắc tới hình ảnh chị Hai Dương – “Tây Thi đậu phụ", ngày xưa “phấn son” nổi danh tài sắc bây giờ đã trở thành một “bỉ vỏ" trơ tráo, lúc thì ăn cướp đôi tất tay, lúc thì lấy cái "cẩu khí sát” rồi chạy biến. Cũng không thể không nghĩ tới cháu Hoàng và Thủy Sinh, con trai thứ năm của Nhuận Thổ. Trẻ con xưa nay vẫn hồn nhiên và đáng yêu. Nghĩ đến những con người quê hương, "tôi” mong muốn những em bé quê hương sẽ không còn “phải khốn khổ và tàn nhẫn…”, mong mỏi chúng nó được sống “một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống".

4. Con đường

Phần cuối truyện Cố hương tác giả viết một câu văn rất lạ mà hay. Sau khi ông nói đến mọi thứ " tượng gỗ” và “sùng bái tượng gỗ", nói đến mong ước “gần gũi" và “xa vời", nói đến “thực" và “hư’' trong “hy vọng", rồi ông hạ bút. Đó là suy ngẫm của “tôi”: “ Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Có con đường mưu sinh phải xa quê. Có con đường tình nghĩa, không quản xa xôi, cách trở đã về thăm lại quê. Có con đường khổ ải. Có con đường hạnh phúc. Con đường gần, con đường xa, con đường hi vọng đi lên phía trước. Có con đường mòn… Cũng có chuyện phá lối mở đường. Con đường đến với mỗi người là con đường số phận. Con đường của mỗi dân tộc là con đường cách mạng. Phải chăng đó là ý tưởng sâu sắc về hình tượng con đường trong Cố hương.

Ca dao có câu:                                                                            

Quê hương nghĩa nặng tình sâu,

Bể dâu biến đổi biết đâu là nhà

Đọc Cố hương của Lỗ Tấn, tôi bâng khuâng mãi về tiếng hát ấy từng vang vọng khắp miền Trung thân yêu của quê mẹ…

Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Bài làm 2

Đọc Cố hương, ta bắt gặp một giai điệu buồn, một nỗi buồn xuyên suốt, sâu xa từ hiện thực mang chất trữ tình thâm trầm, thấm thìa. Một câu chuyện dường như không có cốt truyện – chỉ như một bút kí sơ sài nhưng lại có sức đọng ở tầng sâu cảm nghĩ. Chủ đề của tác phẩm cứ toả rộng ra, nâng cao dần lên từ những vỉa quặng nổi, chìm, từ những mạch ngang dọc. Đề tài là cố hương, tất nhiên phải có hình ảnh về chính cố hương, nhưng ấn tượng đọng lại của truyện lại là những nỗi niềm buồn vui về mảnh đất nghìn đời của nhà văn, và sau đó là những day dứt băn khoăn : làm thế nào để thay đổi nó.

1. Hình ảnh một quê hương xơ xác tiêu điều.

Dấu hiệu đầu tiên của sự tàn tạ làm "lòng tôi se lại" là những "thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa" mà tác giả (nhân vật tôi) quan sát được ở ven sông. Đó không phải là hình ảnh về quê hương mà người viết mong chờ và hồi hộp biết bao sau hơn hai mươi nãm trở lại. Quê hương trong thực tế khác xa cái quê hương mà "tôi" có trong lòng, có trong kí ức. Cái hôm nay không giống cái hôm qua "Làng cũ tôi đẹp hơn kia !". Vậy phải chăng cảm giác đầu tiên khi trở về làng này là một ngộ nhận, một cảm tính chủ quan vì "lòng mình vốn dã không vui", hoặc sự thê lương cũng không đến nỗi như mình lầm tưởng ? Cảnh hiu quạnh khi bước chân đặt đến cổng nhà gieo thêm cái lạnh, cái buồn về sự tan hoang, thưa vắng. Nhà cửa, chòm xóm chắc hai chục năm về trước còn ấm áp đông vui, nhưng giờ thì nhiều gia đình đã dời đi, nay đã thành trống trải. Nhiều nhà khác dã ra đi, gia đình "tôi" cũng sắp sửa ra đi. Nhìn mấy cọng tranh khô phất phơ trên mái ngói nhà mình giống như một ngôi nhà vô chủ từ lâu, vậy nên "khống đổi chủ không được", điều ấy tất nhiên, không khác gì những ngôi nhà trước đó. Đồ đạc trong ngôi nhà của "tôi" gần như bị quên lãng và nào có gì nhiều. Ấy thế mà biết tin, xóm giềng họ tộc đến "hỏi thăm" không ít. Động cơ không hoàn toàn chỉ là trong sáng, thể hiện ở cái không khí xô bồ không phân biệt được người ngay, kẻ gian vì khách khứa thì nhiều, trong dó có kẻ đến dưa chân, người đến lấy đồ đạc, cũng "có kẻ vừa dưa chân vừa lấy đồ đạc". Vì vậy khi con thuyền của gia đình "tôi" rời bến lên đường thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà "hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt" đều đã được mang đi "sạch trơn như quét". Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói không gì khác là mất mùa, thuế má… Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ đông con, tuy đứa bé nhất có thể lao đọng cũng đã "giúp được việc" rồi vẫn chẳng đủ ăn vì tai hoạ, vì sự sách nhiễu của bộ máy tham ô "chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả".

Có lẽ sự thay đổi nhiều nhất, ấy là sự biến dạng ở chính con người. Một Nhuận Thổ hôm nay hoàn toàn không giống với Nhuận Thổ năm xưa. Còn đâu khuôn mặt ngày nào tròn trĩnh, "nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng". Thay cho gương mặt rạng rỡ, hăm hở vào đời ngày đó là một cái gì thật tàn héo xác xơ "Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm", chiếc mũ trên đầu rách bươm, chiếc áo bông mặc mùa lạnh trên người thì "mỏng dính". Đặc biệt là hai bàn tay trước kia hồng hào, lanh lẹn, mập mạp nay chỉ còn hai bàn tay "vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông". Nếu chỉ là dấu vết của tuổi già, một cái gì vô cảm thì tại sao khuôn mặt Nhuận Thổ khi gặp người mà chính anh mong nhớ, đợi chờ lại "vừa hớn hở vừa thê lương". Cái gì đó nhấn con người đói nghèo nhưng lương thiện ấy xuống tận bùn đen, đổ gương mặt vui tươi ngày trước trở thành mụ mẫm "đần độn" đi nếu không phải là do bao nhiêu tệ nạn : con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ. Nói đến tệ nạn và các thế lực áp bức này thông qua một nạn nhân của nó, sức tố cáo của ngòi bút hiện thực mạnh mẽ, dữ dội biết chừng nào ? Nhân vật thím Hai Dương, "nàng Tây Thi đậu phụ" có lẽ là đại diện cho số đông có những biểu hiện lưu manh hoá. Ra vẻ tức giận "tôi" giàu mà keo kiệt vì không chịu cho không những thứ "đồ gỗ hư hỏng", mụ quay gót thong thả đi ra rồi "tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng". Hoặc một lần khác mụ "đứng cạnh đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa" rồi đổ cho Nhuận Thổ có ý gian lén lút vùi vào. Đứa trẻ nhỏ nhất bây giờ, đứa con thứ năm của Nhuận Thổ cũng không giống bố nó hai chục năm về trước, hoặc chỉ như một phiên bản đáng buồn vì gương mặt thì nó giống hệt anh "chỉ có điều vàng vọt, gày còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng bạc mà thôi". Rõ ràng bằng óc quan sát có sự đối chiếu làm nổi bật sự đổi thay, nhất là bằng phương thức miêu tả nói ít mà gợi nhiều, phác hoạ cái bên ngoài mà nói được bao điều sâu sắc bên trong hoặc điển hình hoá một chân dung, một tính cách nhân vật.

2. Nỗi buồn vô hạn của nhà văn

Khi quan sát, miêu tả cảnh và người nơi chôn rau cắt rốn, nhà văn vốn không có cái nhìn dửng dưng của người ngoài cuộc. Vì cảnh ấy, người ấy đối với nhà văn rất đỗi thân yêu, gần gũi. Có thể nào nhà văn "vô cảm", dửng dưng ? Nhưng dù sao, những chi tiết phác hoạ trên đây vẫn là ngoại canh, đối với người viết, nó vẫn chỉ là khách thể, cái bên ngoài. Còn nỗi buồn vô hạn của nhà văn, nó lặn vào chiều sâu, vào tầng hai của hiện thực nhìn thấy. Ở đây, các phương tiện biểu cảm được tận lực phát huy và tỏ ra vô cùng hiệu quả.

Trước hết, ấy là cảm nhận về sự tù túng, quẩn quanh, ngưng đọng của một làng quê nói riêng, cũng là một đất nước Trung Quốc nói chung. Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ tính đến ba đời : từ cha Nhuận Thổ đến Thuý Sinh (con Nhuận Thổ) trước sao sau vậy, không "mọc mũi sủi tăm" lên được dù thời gian có đến một thế kỉ trôi qua. Ông là người "ở tháng", cha là người được chủ gọi thêm, để coi giữ đồ thờ (trong những ngày giỗ tết), còn đứa con biết trôi dạt về đâu khi điểm tựa là gia đình, một gia đình đồng con làm không đủ sống. Nếu theo quan điểm "con hơn cha là nhà có phúc" thì gia đình Nhuận Thổ đúng là "vô phúc". Một Thuỷ Sinh bây giờ đâu có bằng cha nó của hai mươi năm vể trước ? Một thím Hai Dương cũng khác trước nhiều. Cái lương thiện, hiền hậu của cô gái ngồi bán đậu phụ năm xưa đã thay thế bằng những gì không được đáng yêu như thế : tự cao, tự đại, tâng bốc lấy lòng, tham lam tinh quái, cái dáng điệu com-pa thay bằng tên gọi "mụ com-pa"…

Cùng với sự trói buộc vô hình của xã hội, những nạn nhân đáng thương này còn tự trói mình bằng một sợi dây truyền kiếp. Ấy là sự mặc cảm, những ngộ nhận về thân phận tôi đòi. Điều này làm cho nhà văn bất ngờ và đau đớn nhất. Vì đó là căn bệnh nan y về mặt tinh thần của những người áp bức do chính họ tạo ra. Nó phổ biến lan tràn trở thành một thứ "quốc dân tính" kìm hãm con người ngu muội trong một không gian khép kín tối tăm. Tình cảm giữa Nhuận Thổ với nhân vật "tôi" thật thân thiết, chân thành, cởi mở hồi còn là hai đứa trẻ ngày nào. Với nhân vật "tôi" sau hai chục năm dường như nó vẫn còn trọn vẹn, còn tươi nguyên như thế. Vì kỉ niệm giữa chúng gần giống như một thiên đường trên mặt đất. Nhuận Thổ khi ấy "lên tỉnh" thì lần đầu tiên mới trông thấy "những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả". Còn về vùng biển quê Nhuận Thổ, nhân vật "tôi" tung tăng bay nhảy như một con chim sẻ sổ lồng. Mùa tuyết xuống thì đi bẫy chim, mùa dưa hấu thì đi canh lợn rừng, con tra, con nhím. Ra biển thì đi nhặt vỏ sò màu đỏ, màu xanh… cảm giác của nhân vật "tói", cũng giống Nhuận Thổ là "chưa hể biết trên đời này lại có những chuyện mới lạ như vậy". Với nhân vật "tôi", những phát hiện mới này không chỉ là ngày hội, niềm vui, nó còn là sự kiêu hãnh so với bạn bè trên tỉnh vì "chúng nó cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi !". Trong thế giới tuổi thơ hồn nhiên ấy, chúng đã từng là bạn bè, anh em dù hai gia đình không cùng một hoàn cảnh sống. Không có gì để phân chia kẻ nông thôn người thành phố. Những giọt nước mắt khi phải chia tay đéu rất chân thành chia đéu cho hai đứa trẻ ngây thơ. Nó là vô giá. Với nhân vật "tôi", đó là vùng sáng của quê hương, hồn vía của quê hương. Hai chục năm xa cách, tuổi thơ đã đi qua nhưng có cái không thể đi qua, kí ức của "tôi" giống như "bừng sárig lên" khi bà mẹ nhấc đến "có anh Nhuận Thổ đến chơi" sau bao chuyện vật đổi sao dời xa lơ xa lắc. Còn Nhuận Thổ khi gặp lại "tôi" tại sao nét mặt "vừa hớn hớ vừa thê lương" ? Hớn hở vì vui mừng, đó là những tình cảm hồn nhiên chưa mất. "Tôi" đi xa, anh thường đến hỏi thăm. Nhận tin "tôi" trớ về, anh vội đến gặp mặt, lại còn cho quà dù quà quê chỉ là một gói đỗ xanh phơi kĩ. Tình cảm như thế là chân thật. Nhưng cái hiển nhiên thì đã không còn. Nhuận Thổ đã biết tiết chế sự hồ hởi thể hiện ở những hành vi ứng xử rất chừng mực. Anh đã tạo ra một thứ hàng rào ngăn cách. Thay cho cách nói suồng sã anh anh em em ngày nào là một thái độ khác : một dáng điệu "cung kính", một cách chào "rành mạch" dường như anh đã tự dặn mình, đã luyện tập kĩ để không một mảy may vụng về, lúng túng : "Bẩm ông". Cái cách thưa gửi lạ tai ấy thật bất ngờ vì lần đầu "tôi" nghe thấy trong quan hộ bạn bè, tri âm thân thiết. Nó ráo hoảnh trong sự ngăn cách phân chia. "Tôi như điếng người đi" chính là vì vậy. Sự đau đớn của "tôi" không nói được nên lời vì đó là nỗi đau quá lớn ngoài sức tưởng tượng của người kể chuyện. Hơn thế nữa, một cái gì còn lớn hơn, giống như một định mệnh : người đi ở vẫn là đi ở, người hèn hạ vẫn là người hèn hạ. Thế giới phẳng lặng này không dành chỗ cho sự thay bậc đổi ngôi. Trái tự nhiên, luật lộ vô hình vẫn ngang nhiên tồn tại, tồn tại trong ý thức con người, kổ cả con người bị áp bức khổ đau. Quan hệ thân mật đã trở nên xa cách, "tôi" không nói được gì hơn vì cái không khí ngột ngạt bao trùm. Cuộc trò chuyện giữa khách và chủ tớ nên rời rạc "toàn là những chuyện chẳng quan trọng gì", bởi nó vô hồn nhạt nhẽo. Kể lể về nỗi buồn của bản thân Nhuận Thổ mà những nếp nhăn trên mặt anh không hề động đậy như anh là người kể còn nội dung câu chuyện là của một ai đó mà thôi. Gương mặt ấy "phảng phất như một pho tượng đá" thật phẳng lặng đến thản nhicn nhằm vĩnh viễn hoá những đau thương mà mình nếm trải nhọc lòng, không còn biết cái buồn vui hồn nhiên là gì nữa.

3. Một con đường đang hình thành ở phía trước

Như thế là con đường phía sau đã rõ : một con đường rất hẹp mà cũng rất dài vắt ngang bao nhiêu thế kỉ. Vấn đề đặt ra là có nên tiếp tục giẫm chân lên những bước chân của người khác hay thay đổi nó đi, mở ra một con đường mới. Hình ảnh về con đường cũ như tự nó hình thành : con đường tâm tưởng ấy song song với con đường có thực mà quy trình của nó dễ thấy biết bao : từ thành phố trở vé rồi từ dó lại ra đi, trở về trong đêm và ra đi trong buổi hoàng hôn. Hai khoảnh khắc thời gian đánh dấu một con đường ảm đạm. Phải chăng là rời bỏ cố hương cũng là chia tay với quá khứ, một quá khứ đáng buồn ? Câu văn bỗng trở nên đa nghĩa. Đó là "những núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp chạy về phía sau lái" có ý nghĩa về cuộc biệt li, biệt li mà "không chút lưu luyến" cảm thương. Trong bối cảnh đó, một cảm nhận mới, không phải không dính líu đến cuộc chia tay ập đến "tôi chỉ cảm thấy chung quanh tôi là bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt". Tuy vậy, tuy quá khứ thì có thể quên đi nhưng câu hỏi của thằng bé Hoàng còn đó "nhưng mà thằng Thuý Sinh nó hẹn cháu đến nhà chơi cơ mà !". Quan hệ giữa "tôi" với Nhuận Thổ cứ cho là đã thuộc về quá khứ, còn tình bạn của hai đứa trẻ, nghĩa là một thế hệ tiếp nối thì sao ? "tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả…". Trong tương lai số phận của chúng sẽ không thể nào còn giống chúng tôi, hoặc vất vả chạy vạy như tôi, hoặc "khốn khổ mà đần độn" như Nhuận Thổ, cũng không giống những người dưng "vì khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác". Cuộc sống của chúng tôi, thời chúng tôi, thời của quá khứ không xứng đáng với con người. Nhà văn nghĩ đến một cuộc song khác, một cuộc đời mới mà "chúng tôi chưa từng được sống", nghĩa là một xã hội phải thay đổi hẳn đi trong no đủ và nhất là một quan hệ mới giữa con người.

Nhưng hi vọng của người ta có ba, bảy đường. Ở đây lại xuất hiện một thứ ngã ba, có hi vọng hướng vé phía sau, có hi vọng hướng về phía trước. Trong Nhuận Thổ có cái ước mơ thứ nhất. Nó tự nhiên như một quán tính, một thói quen khi anh xin gia đình "tôi" chiếc lư hương và đôi nến. Dù cuộc sống có khốn khổ thế nào anh không bỏ được thói quen là "sùng bái tượng gỗ" của anh, tự nguyện trở lại cái quá khứ đáng hàng trăm lần nguyền rủa. Nhưng ngay ở hi vọng thứ hai, hi vọng một xã hội trong đó con người được giải phóng, được tự do cũng có thể không phải không hão huyền, và xét cho cùng, nó cũng là một loại "tượng gỗ" vô hồn, vô tri kiểu mới "thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra". Trở về với quá khứ thì quá giản đơn vì gần gũi, còn đánh cược cuộc đời mình về phía trước thì dường như lại quá "xa vời" gần với sự hư vô như nhìn vào ảo ảnh. Hình ảnh con đường và thái độ chọn đường đến phần kết câu chuyện mới thực sự được xác định. Biến mơ ước thành quyết tâm khi nhà văn tự nêu lên một định nghĩa về tương lai, cũng là về con đường mới : "kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi". Đặt ý nghĩ trên đây vào những năm hai mươi của thế kỉ trước, ta mới nhận ra một dự cảm tiên tri, một táo bạo và dũng cảm tìm đường của Lỗ Tấn. Phương thức lập luận với nhiều thao tác tư duy như: so sánh, loại trừ, phủ định để tìm ra chân lí phù hợp với giọng văn độc thoại ở đây. Giá trị nhân văn của Cố hương vì vậy không chỉ ở sự cảm thông (với nỗi khổ của kiếp người – như kiếp người Nhuận Thổ) mà còn là, và chính xác là xoá bỏ. Phê phán một xã hội đang tàn hay khát khao thiết kế một mô hình mới, một xã hội tốt đẹp cho con người, ngòi bút "trong nóng ngoài lạnh" của nhà văn có một sức lan toả sâu xa.

Phân tích truyện ngắn Cố hương của văn hào Lỗ Tấn – Bài làm 3

1- Tác giả Lỗ Tấn.

– Lỗ Tấn ( 1881-1936 ) tên thật là Chu Thụ Nhân , quê ở phủ Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc . Năm 13 tuổi , chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh mà chết vì không có thuốc , Lỗ Tấn ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc,để chữa bệnh cho những người nghèo như cha mình .

– Tuổi trẻ Lỗ Tấn nhiều lần đổi nghề để tìm con đường cống hiến cho dân tộc : nghề hàng hải , khai mỏ rồi chuyển sang nghề y . Đang học nghành y ở Nhật , một lần xem phim ông thấy những người Trung Quốc khoẻ mạnh hớn hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc chống Nhật . Ông giật mình nhận ra rằng : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần . Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân , lưu ý mọi người tìm cách chạy chữa . Con đường gian nan chọn nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn của lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại vừa nói lên tâm huyết của Lỗ Tấn với dân tộc.

– Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc đầu thế kỉ XX : “Trước Lỗ Tấn , chưa hề có Lỗ Tấn , sau Lỗ Tấn , có vô vàn Lỗ Tấn” (Quách Mạc Nhược ). Ông được tôn vinh là linh hồn dân tộc . Ông chuyên vạch trần những thói hư tật xấu của nhân dân để mọi người tìm cách chạy chữa , tự phấn đấu vươn lên , tự cường dân tộc . Tác phẩm chính của Lỗ Tấn là AQ chính truyện , Cố hương…

2- Tác phẩm:

a-Hoàn cảnh ra đời : Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn viết năm 1919 , đúng vào lúc cuộc vận động Ngũ Tứ ( Phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ của học sinh , sinh viên Bắc Kinh ) bùng nổ.

b-Tóm tắt tác phẩm:
Một đêm mùa thu gần về sáng , Lão Hoa đem số tiền vợ chồng dành dụm được ra pháp trường , gặp đao phủ mua một cái bánh tẩm máu tử tù về cho thằng Thuyên ,con trai lão ăn để chữa bệnh lao.(Mua thuốc , uống thuốc )(người kể chuyện là lão Hoa)

Trời sáng , quán trà của vợ chồng lão Hoa đông khách dần , mọi người bàn tán về cái chết của tử tù . Tử tù là Hạ Du , một người cách mạng bị xử chém vì chống Nhật . Mọi người cho Hạ Du là thằng điên , thằng khốn nạn và khen Cụ Ba là khôn vì đã tố cáo cháu mình để lấy tiền thưởng . Họ cũng cho vợ chồng lão Hoa là may vì tìm được máu để tẩm bánh bao làm thuốc (bàn về thuốc).(người kể chuyện biết tuốt)

Tiết thanh minh vào mùa xuân năm sau , bà Hoa đi thăm mộ con ( thằng Thuyên vẫn chết vì bệnh lao dù đã ăn bánh bao tẩm máu người). Bà gặp bà mẹ của Hạ Du .Mẹ Hạ Du lúc đầu còn ngại ngùng , nhưng sau đó bà Hoa đã bước qua ranh giới phân chia khu nghĩa địa dành cho dành cho người nghèo sang khu dành cho ngưòi chết chém để an ủi mẹ Hạ Du . Cả hai bà mẹ đều hết sức kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa (hậu quả của thuốc). (người kể chuyện là bà Hoa)

II – Phân tích :

1-Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:
Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược) . Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao.Nhan đề này có nhiều nghĩa .

-Tầng nghĩa thứ nhất của Thuốc là nghĩa tường minh , chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người . Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực , con cái dẫn đến cái chết của ông cụ.

-Tầng nghĩa thứ hai của Thuốc là nghĩa hàm ẩn , đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần : căn bệnh gia trưởng , căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc . Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó . Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác .Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc , không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.

-Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc , của chiếc bánh bao tẩm máu người là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ . Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân . Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc , là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước ,cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.

Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại : nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”

2- Các nhân vật:

a-Hình ảnh đám đông quần chúng:

-Buổi sáng sớm, ở pháp trường , lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu tử tù về chữa bệnh cho con thì bị một đám đông xô đẩy nhau ào ào,chen bật lão suýt ngã.Đó là những người đi xem hành hình nhà cách mạng Hạ Du .Đám đông này khiến ta liên tưởng đến đám đông đi xem hành hình một người Trung Quốc chống Nhật khiến Lỗ Tấn đi đến quyết định : Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân.

-Khi trời sáng hẳn, ở quán trà đã đông khách của lão Hoa , Cậu Năm Gù ,Cả Khang ,người râu hoa râm…cùng bàn tán về cái chết của Hạ Du với thái độ miệt thị. Họ cho anh là cái “thằng khốn nạn”, “hắn điên thật rồi”.Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp may . May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, còn lão Hoa thì có máu Hạ Du để chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên.
Tóm lại, qua hai sự việc trên,và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện , ta thấy đám đông quần chúng thật là mê muội. Sự hiểu biết và thái độ của họ về những vấn đề của đất nước,về bệnh tật ,về cuộc đời còn quá hạn chế.Nói như Lỗ Tấn thì họ đang “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ .Phải làm thế nào đó để thức tỉnh họ.Ta cũng thấy nhân vật Hạ Du là một người yêu nước nhưng anh cũng thật cô đơn .

b-Nhân vật Hạ Du:

Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện .
Hạ Du là một người yêu nước , một nhà cách mạng tiên phong , dũng cảm xả thân vì nghĩa lớn.
Nhưng anh rất cô đơn ,không ai hiểu anh kể cả mẹ anh .Anh đã đổ máu vì quần chúng thế mà họ lại lấy máu anh để tẩm bánh bao chữa bệnh lao.
Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, một cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại.Qua hình tượng Hạ Du ,Lỗ Tấn muốn bày tỏ lòng kính trọng với cuộc cách mạng này.

3-Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con:

-Thời gian nghệ thuật của truyện tiến triển từ mùa thu Hạ Du bị hành hình đến mùa xuân trong tiết thanh minh năm sau lúc hai bà mẹ đi thăm mộ con.Cái chết của hai người con cũng như chiếc lá rời cành để tích nhựa cho một mùa xuân hi vọng. .Thời gian nghệ thuật đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả.

-Nghĩa địa của làng mộ dày khít như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ ,có một con đường mòn ở giữa chia làm hai:Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải .Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen.Hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương con sâu sắc.

-Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa : “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”.Bà mẹ Hạ Du cứ lẩm bẩm câu hỏi “Thế này là thế nào?”.Câu hỏi vừa hàm chứa sự sửng sốt ,vừa ẩn giấu niềm vui vì có người đã hiểu con mình .Đồng thời đã là câu hỏi thì đòi hỏi có câu trả lời. Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm túc.Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong.

2- Đặc sắc nghệ thuật:

-Truyện có lối viết cô đọng, súc tích ,giàu hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng (chiếc bánh bao tẩm máu,vòng hoa,con đường mòn…)

-Cách xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt: không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà đặt ở tuyến ngầm phía sau nhân vật đám đông để khắc hoạ chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.

-Cách kể chuyện theo ngôi thứ ba truyền thống nhưng nhiều đoạn đã chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật làm cho truyện sinh động và giàu chất trữ tình hơn.
Văn hào Lỗ Tấn (1881 – 1936) được ngợi ca là vị chủ tướng trên mặt trận văn hóa – tư tưởng, đạt được thành tựu lớn nhất trong nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ông đã sống và viết với một tâm thế chiến đấu ngoan cường, bất khuất, coi khinh mọi kẻ thù của nhân dân. Hai vần thơ nổi tiếng của ông được truyền tụng như một châm ngôn sáng ngời:

“Quắc mắt coi khinh nghìn lực sĩ,

Cúi đầu làm ngựa chú nhi đồng”.

Nhà văn Fađêép (Nga) từng ca ngợi: “Lỗ Tấn là một danh thủ truyện ngắn thế giới… Ông đã cống hiến cho nhân loại những hình thức dân tộc không thể bắt chước được…”.

“Thuốc” là một truyện ngắn đa nghĩa như nhiều truyện ngắn khác của Lỗ Tấn. Ông sáng tác truyện “Thuốc” vào ngày 25/4/1919, đúng một năm sau “Nhật ký người điên” ra đời. Nó được đăng trên báo “Tân Thanh niên” số thang 5/1919 giữa cơn bão táp phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) do học sinh, sinh viên Bắc Kinh phát động, mở đầu cuộc vận động “cứu vong” – cứu đất nước Trung Hoa khỏi diệt vong.

Lỗ Tấn kể chuyện vợ chồng lão Hoa Thuyên mua bánh bao tẩm máu tử tù để làm thuốc chữa bệnh lao cho con, chuyện Hạ Du làm cách mạng mà bị chêt chém… qua đó tác giả thể hiện tình trạng u mê, tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong trong xã hội Trung Quốc những năm đầu của thế kỷ 20.

Lỗ Tấn chia truyện làm bốn phần: 1) Lão Hoa Thuyên đi mua thuốc – bánh bao tẩm máu tử tù – đem về chữa bệnh lao cho con; 2) Vợ chồng lão Hoa nướng “thuốc” và thằng Thuyên – con trai ăn “thuốc”; 3) Bọn khách trong quán trà và bác Cả Khang (đao phủ) nói về “thuốc” và bàn về tử tù; 4) Bà Hoa và bà Tứ (mẹ tử tù) cùng đi thăm mộ con và gặp nhau trong nghĩa địa nhân ngày thanh minh.

1. Lão Hoa Thuyên đi mua “Thuốc” cho con vào một đêm mùa thu gần sáng, trăng lặn rồi. Mùa thu cũng là mùa ở Trung Quốc dưới thời Mãn Thanh, người ta đem chém tử tù. Trời tối và lạnh, vắng vẻ. Tiếng ho của người bệnh lao (thằng con trai) nổi lên. Bà Hoa sờ soạng dưới gối lấy một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão Hoa Thuyên cầm đèn ***g đi ra, thằng con lại nổi một cơn ho. Lão Thuyên khẽ nói với con, biết bao thương yêu: “Thuyên à! Con cứ nằm đấy!…”

Trời tối và vắng, lạnh, nhưng lão Hoa Thuyên “cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho thép thần thông cải từ hoàn sinh”. Đã mấy đời độc đinh, thằng Thuyên bị ho lao, một mối lo buồn đè nặng đã bấy nay, vì thế đêm nay, lão cầm đèn đi mua thuốc cho con, lão chứa chan hy vọng mới cảm thấy “sảng khoái” và như “trẻ lại”.

Cảnh pháp trường qua cái “trố mắt nhìn” của lão Thuyên. Có biết bao nhiêu người “kỳ dị hết sức”, cứ hai ba người “đi đi lại lại như những bóng ma!” Bọn lính với sắc phục có “miếng vải tròn màu trắng” ở vạt áo trước, vạt áo sau, có “đường viền đỏ thẫm” trên chiếc áo dấu. Cảnh pháp trường, lúc thì “tiếng chân bước ào ào”, bọn người “xô nhào tới như nước thủy triều”, lúc thì cả đám “xô đẩy nhau ào ào”. Hình như họ tranh nhau “lấy thuốc” để đem bán?

Người bán thuốc cho lão Thuyên mặc “áo quần đen ngòm” “mắt sắc như hai lưỡi dao” chọc thẳng vào lão, làm lão “co rúm” lại. Thuốc là “một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt”. Sau khi “tiền trao cháo múc”, người bán thuộc giật lấy gói bạc, “nắn nắn” rồi quay đi, miệng càu nhàu. Lão Thuyên “run run – ngại không cầm chiếc bánh”, nhưng sau đó, tất cả tinh thần lão để hết vào cái bánh bao tẩm máu ấy, “lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao!”

Cảnh vợ chồng lão Hoa Thuyên gặp nhau “bàn bạc một hồi”, cảnh lấy lá sen già gói bánh bao tẩm máu tử tù để nướng, cảnh ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên “một mùi thơm quái lạ” tràn ngập cả quán trà rồi cậu Năm Gù đi vào quán trà hỏi: “Thơm ghê nhỉ?… Rang cơm đấy à?”, cảnh thằng Thuyên ăn “thuốc” hai bố mẹ đứng hai bên, và bà Hoa nói khẽ, an ủi con: “Ăn đi con, sẽ khỏi ngay” – tất cả đều phản ánh tình trạng mê muội của quần chúng. Họ tin tưởng một cách chắc chắn và thiêng liêng rằng, bánh bao tẩm máu tử tù ăn vào sẽ chữa khỏi bệnh lao. Với một cách viết dung dị, trầm lắng, sâu xa, hàng loạt chi tiết đưa ra đều xoay quanh chuyện mua, bán thuốc, chuyện ăn thuốc và niềm tin “thuốc thành” sẽ chữa khỏi bệnh lao, tác giả đã làm nổi bật chủ đề thứ nhất của truyện là phê phán tư tưởng mê tín, tập quán chữa bênh phản khoa học.

Buổi sáng mùa thu năm ấy, sau khi thằng Thuyên ăn “Thuốc” nằm ngủ, bà Hoa “nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con” thì quán trà một lúc một đông khách. Có cậu Năm Gù, có một người “râu hoa râm”. Có lão “mặt thịt ngang phè… mặc chiếc áo vải màu huyền, không ghi khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quần ở ngoài, xộc xệch…”. Sắc phục ấy là dấu hiệu của những đao phủ trên pháp trường. Đó là bác Cả Khang, kẻ đã bán “thuốc” cho lão Hoa Thuyên. Bác Cả Khang sau khi tán tụng thức thuốc đặc biệt “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà chẳng khỏi” đã nói về tử tù là “con nhà bà Tứ chứ còn ai? Thằng quỷ sứ!”

Từ khóa tìm kiếm

  • nghệ thuật truyện ngắn cố hương
  • phăn tích nhân vật anh tấn trong truyện cố hương
  • trong tác phẩm cố hương đặt ra vấn đề gì
  • Ý nghĩa sự tố cáo xã hội trog cố hương

Bài viết liên quan

0