25/05/2017, 00:57

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9

Đánh giá bài viết Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán ...

Đánh giá bài viết Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng ...

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thế hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều.

Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khoá xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trại qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thận phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi dơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán ngán, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đôi ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé:

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy.

Tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, nàng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thuỷ của một con người.

Nếu khi nhớ tới Kim Trọng, Kiều tưởng thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều xót:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa ngóng chờ tin của đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ, Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thuỷ, là người con rất mực hiếu thào, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cùng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân dạo của Nguyễn Du đối với con người.

Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với những lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã tình buồn tác động lại khiến cảnh buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghé gớm, mãnh liệt hơn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông là cảnh cửa bể lúc chiều hôm:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở luôn gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà cách xa, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cảnh làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là cỏ non xanh rợn chân trời, còn cỏ ở đây rầu rầu. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự sống, của hi vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thuý Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và các cặp câu được liên kết nhờ điệp ngữ buồn trông:

Buồn trông cửa biển chiều hôm,

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Buồn trông là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. Buồn trông có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngửa. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. Buồn trông trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hoà tấu phức điệu của sóng biển, sóng lòng, sóng đời đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm hoạ như muôn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn-nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình.

Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2

Trong “Truyện Kiều" của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng trong những câu thợ cuối cùng, ở bốn bức tranh:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ám tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cành nhưng thực sự là tả tình.

Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông" nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy. Vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của Kiều là nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quá thật, trong suốt phần đầu của "Truyện Kiều”, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con. Một người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri, bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ. Kiều đã gặp ngay một trận “ tam bành" của con mụ buôn thịt người ác độc. Có lẽ Kiều đã đau, đã nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.

Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích (thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay thì vĩnh viển cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà không có nàng để hôm sớm đỡ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông, giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh một dội vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếng' “buồn trông". Nguyêxn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy!

Kiều trông gì?

Đây là bức tranh thứ nhất:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"

Trông về "cửa bể" mà lại là “cửa bể chiều hôm". Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn vẽ cửa bể tức là còn nhìn thấy cả một mặt bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. Phía ấy không có gì cả ngoài một trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại nổi lên hình ảnh “thuyền ai". “Thuyền ai" tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi lên một điều vui vẻ. Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó, mà cánh buồm thì lại cũng chỉ ‘'thấp thoáng”. “Thấp thoáng", hai âm "th" gợi một cam giác kịp lại. Với hai âm "ấp" và “oáng" một âm tấc, một âm vang – diễn tả hình ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ hồ, như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. "Thuyền ai …" thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ? Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn.

Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây:

“Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?"

Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuồn xoáy, sôi trào, xô dập, ngầu đục cát bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác! Cảnh ngọn nước đã buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: hoa trôi man mác … Giá nhà thơ viết 'tan tác" thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan vỡ đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh kia! Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại, rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được. Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy. có khác chi cuộc đời Kiều! Chính Kiều cũng là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đoá hoa đang man mác trôi đi. Đơn độc và mỏng manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe đoạ chưa thế nào hình dung ra hết.

Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mất trông đi nơi khác.

 “Buồn trông nội có dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."

Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không nhà để phá vỡ bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì tươi tốt gì đâu! Từ "dầu dầu" không chỉ gợi lên ý buồn bã, mà còn hình dung thấy những ngọn cỏ lưa thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội thanh minh:

“Cỏ non xanh rợn chân trời… ”

Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh, thế mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành một màu duy nhất: "xanh xanh". Nêu Nguyễn Du viết:

“Chân mây mặt đất một màu xanh tươi"

Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng xanh xanh thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh" ấy là cái màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau.

Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng. May ra có chút đổi thay chăng?

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cành trên buồn đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chi là những bước chuẩn bị cho cánh buồn cuối cùng này. Một vũng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xoá một màu. Sóng vỗ “ầm ầm" chứ không phải “ầm" như những ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, dập vào bờ, xô dập nhau, lớp sóng này chưa tan đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều lường như mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đâu chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên nàng là sóng vỗ. Mấy từ 'ầm ầm tiếng sóng" nghe đã dữ dội bên tai nàng, dâng lên gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.

Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt, đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh; ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào. Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần. Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi bị lừa gạt.

Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng cách của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hoà hợp với hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là tác phẩm thơ Nôm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Trong truyện Kiều Nguyễn Du không chỉ thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn đặc biệt thành công trong việc sử dụng bút pháp “ Tả cảnh ngụ tình”, tức là lấy cảnh vật để nói lên tâm trạng của con người. Đoạn trích được coi là thành công và thể hiện rõ nhất được bút pháp này chính là “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, tủi nhục và phẫn uất, Thúy Kiều đã dùng dao tự vẫn,Tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã hết sức thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều vào ở trong lầu Ngưng Bích, đợi thời cơ thực hiện mưu ma chước quỷ, buộc Thúy Kiều phải làm theo ý mình.

Mở đầu, Nguyễn Du đã vẽ ra khung cảnh không gian và thời gian ở lầu Ngưng Bích.Không gian càng rộng lớn, tịch mịch thì càng làm nổi bật nên tâm trạng cô đơn và cảnh ngộ bi kịch của nàng Kiều.

“ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Hai chữ “ khóa xuân” đã bộc lộ được rõ nét tình cảnh hiện tại đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam hãm, cầm tù ở lầu Ngưng Bích.Quá khứ là gia biến, hiện tại là mất tự do, lại thân gái dặm trường nơi đất khách. Đóchính là cảnh ngộ đầy bi kịch của nàng Kiều trong những ngày bị giam ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du đã đặt nhân vật của mình trong hoàn cảnh ấy để bộc lộ tâm trạng,nhưng tác giả chủ yếu thể hiện tâm trạng qua ngoại cảnh.

Không gian thật là mênh mông với “ vẻ non xa tấm”, “ bốn bề bát ngát”,” cát vàng cồn nọ”, gợi lên không gian mênh mông mà rợn ngợp.Từ lầu cao trông ra chỉ thấy những dãy núi xa mờ xa, bụi cây, cồn cát. Lầu Ngưng Bích như mây trời giữa trăng núi, gợi ra cái tịch mịch, lạc long, bơ vơ giữa đất trời rộng lớn.Trăng non xa với trăng gần không phải khoảng cách được đo bằng chiều dài vật lí mà là khoảng cách trong tâm tưởng của nàng Kiều.Cảnh có thể là thực đấy nhưng cũng có thể chỉ là tượng trưng, ước lệ gợi không gian bao la, bát ngát.Theo khung tranh mỗi lúc càng thêm lới rộng không giới hạn, không đường viền. Bức tranh có đường nét mền mại của non cao, có sắc vàng ánh hồng tươi tắn của trăng thanh, của bụi cát nhưng vắng bóng con người,vắng âm thanh của sự sống. Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo.

Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng,vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân.

“ Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Chỉ một câu “ bẽ bàng” thôi,Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng hoang mang đến tột độ, niềm chua sót về cuộc đời, số phận của mình.Cụm từ “ mây sớm đèn khuya” gợi ra không gian tuần hoàn khép kín, cũng gợi ra nỗi đau không có điểm dừng,cũng không có điểm kết thúc. Ở đây, tình cảnh của con người đã đã hòa nhập làm một với cái khung cảnh u buồn, trống vắng của cảnh vật. Hay nói cách khác, khi tâm trạng người ta buồn thì cảnh vật dù sống động,vui tươi đến đâu thì cũng bị nhúng một màu tâm trạng, đúng như Nguyễn Du đã từng viết:

“ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong tám câu thơ tiếp theo,Kiều không còn sống với thế giới cô đơn của mình nữa mà lại chín dần vào không gian,thời gian của tâm trạng,của kí ức với hình bong của những người thân yêu. Cảnh tả mờ đi để nỗi nhớ thương cồn lên da diết.

Trước hết đó là nỗi thương nhớ hướng về chàng Kim.

“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nỗi nhớ Kim Trọng được Nguyễn Du giới thiệu bằng từ “ tưởng” thật tinh tế và ý nhị. “ người dưới nguyệt chén đồng” là hoán dụ chỉ chàng Kim, đồng thời gắn với kỉ niệm đêm trăng hẹn thể của hai người.

Bằng cách diễn đạt này ta không chỉ thấy nỗi nhớ kín đáo của Kiều dành cho chàng Kim mà còn thấy tiếc nuối, xót xa cho những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ cùng lời hẹn ước trăm năm.

Nàng Kiều đã tưởng tượng nơi xa xôi nào đó Kim Trọng cũng đang hướng về mình,đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích.
Sau đó Kiều phải đối diện với chính mình, đó chính là nỗi mặc cảm về bản thân và tình trạng đơn độc, bơ vơ nơi đất khách quê người.

“ Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”

Nghĩ về cha mẹ, nàng xót xa thương cảm  vì cha mẹ hôm mai “ tựa cửa” ngóng tin con mà mình lại một mình nơi đất khách. Sự xa cách về không gian, trói buộc về thân phận đã không thể cho Kiều  quạt nồng ấp lạnh” gần gũi, phụng dưỡng bậc sinh thành.

Miêu tả nỗi nhớ về chàng Kim trước nỗi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du đã thể hiện được một cái nhìn đồng cảm sâu sắc với tâm trạng của nàng Kiều. Sở dĩ Kiều hướng nỗi nhớ về Kim Trọng trước vì cảm thấy có lỗi khi phụ tấm lòng, phá bỏ đi lời thề nguyền với chàng Kim; còn cha mẹ nàng dù không thể ở bên chăm sóc nhưng cũng đã kịp báo hiếu phần nào và niềm tin khi có Vân và em trai chăm sóc cho cha mẹ.

Tám câu thơ cuối bài thể hiện tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều ở nhiều cung bậc thông qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.Đoạn thơ gồm bốn cặp thơ lục bát, mỗi cặp câu làm hiện lên bức tranh cảnh vật, mỗi bức tranh cảnh vật đồng thời là một ẩn dụ về cảnh ngộ và tâm trạng nàng Kiều.

“ Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

“ Buồn trông” được điệp đi điệp lại ở đầu bốn câu thơ làm nhấn mạnh nỗi nhớ ngày càng dâng lên tha thiết trong lòng Kiều. Cũng gợi liên tưởng về thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dòng đời như “ hoa trôi”
Bốn câu thơ cuối lại như dự báo về một tương lai đầy đau khổ, sóng gió bủa vây lấy cuộc đời của Kiều

“ Buồn trông song cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng song kêu quanh ghế ngồi”

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm trạng của nàng Kiều thật sinh động và chân thực. Qua đó ta cảm nhận được cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Phân tích tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 4

Trong Truyện Kiều, có nhiều đoạn thơ tả rất hay nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn thơ nào thể hiện được trạng thái bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử nhưng không chết. Biết Kiều tính khảng khái, cứng rắn, Tú Bà cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu khác. Trong thời gian này, sức khỏe của nàng mới được hồi phục, nhưng tình cảm lại rất cô đơn. Chết thì nàng không chết nữa, vì sợ bị liên lụy đến cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào? Một thân một mình nơi hoàn toàn xa lạ, từ cổ vỏ thân? Đây là đoạn thơ bay nổi tiếng trong Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đất của nàng. 

Nguyễn Du vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt buồn, cô đơn của  Kiều… Hai chữ khóa xuân (điển tích Tam quốc) rất đẹp nhưng thực chất là Kiều bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều chỉ còn ở chung, làm bạn với non xa, trăng gần. Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng nhìn ra em thấy không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hổng, dặm kia… tịnh không bóng cây, bông nhà, bóng người. Về thời gian, sớm làm bạn vớì mây, khuya đêm làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi, triền miên thật là bé bàng, chán ngán vô vọng. Buồn vì cảnh một phần, phần khác là vì tình: Đó là nỗi buồn chia sẻ lòng nàng. 

Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng thương nhớ người thân.

Người đầu tiên được nàng nhớ là Kim Trọng – người tình đầu tiên mà đã cùng  nàng thề non hẹn biển… Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người sẽ cùng nhau uống rượu thế bối dưới trăng. Thương nhất là việc Kim Trọng chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn hàng đêm ngày thương nhớ nàng uổng công. Hết thương Kim Trọng lại thương mình… Tấm son là tấm lòng son sắt thủy chung của Kiều với Kim Trọng. Mối tình này không bao giờ nàng có thể quên. Kế đến là thương nhớ cha mẹ già… Tựa cửa là hình ảnh ngóng trông. Tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa trông ngóng nàng về. Cảm thấy xa nhà đã rất lâu (cách mấy nắng mưa) và cha mẹ đã già (gốc từ đã vừa người ôm).

Hiển nhiên Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình  cảm tha thiết gắn bó nhất trong lòng nàng.

Cuối cùng, nhìn đến tình cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận… Đây là những câu thơ réo rất bậc nhất về nỗi buồn luân lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng, lắng sâu trong kí ức… 

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi một nỗi buồn sâu thẳm. 

Buồn trông là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng chỉ vô vọng, hão huyền: Hình như nàng đang mong một con thuyền, một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Lại trông ngọn nước từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa trôi dạt, không biết về đâu. Ngồi trên lầu cao, làm sao Kiều thấy được cánh hoa trên dòng nước? Đây chỉ là cảnh tưởng tượng về số phận của mình. Lại trông chân mày, cánh đồng, mặt đất một màu mờ mịt, xanh xanh, chẳng có chân trời. Trông gió cuốn mặt duềnh (Chỗ ăn sâu vào đất liền thành vũng, vụng). Gió cuốn làm sóng vỗ dào dạt, ầm ầm. Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích có sát bờ biển cũng không thể nghe rõ tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi được. Đó là hình ảnh vừa thực vừa ảo. Người cảm thấy sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa như muốn nhấn chìm nàng xuống vực.

Tám câu thơ là thực cảnh – là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh của sự vô vọng, dạt trôi, bế tắc và chao đảo, nghiêng đổ. Đây là lúc tình cảm của nàng Kiều mong manh nhất, yếu đuối nhất, là lúc nàng dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh ngay sau đó.

Không gian bao la, rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như dồn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực cô đơn, trơ trọi. Nghệ thuật góp phần kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người.

Từ khóa tìm kiếm

  • đoạn văn phân tích tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng có khi gốc tử đã vừa người ôm
  • Cho 8 câu thơ tưởng người dưới nguyệt chén đồng có khi gốc tử đã vừa người ôm phân tích diễn biến tâm trạng của thúy kiều trong đoạn thơ trên
  • khảng định nhân cách của thúy kiều qua bài thơ trao duyên
  • phan tich nôi long cua thuy kieu khi ở lau xanh
  • phân tích tâm trạng của thuý kiểu trong đoạn tricch kiều ở lầu ngưng bích
  • phân tích tâm trạng của thúy kiều trong đoạn trích trao duyên

Bài viết liên quan

0