25/05/2017, 00:56

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9 4.8 (96%) 380 votes Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Bắc Ninh Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài 22 câu trích ...

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9 4.8 (96%) 380 votes Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Bắc Ninh Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài 22 câu trích trong Truyện Kiều là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân ...

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn tỉnh Bắc Ninh

Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích dài 22 câu trích trong Truyện Kiều là những "Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình"(Tố Hữu). Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha "đầu trâu mặt ngựa" cướp "sạch sành sanh…", phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà. Sau khi "thất thân"bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:

Người còn thì của hãy còn,

Tìm nơi xứng đúng là con cái nhà…

Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa "con hãy thong dong", nhưng  thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 nãm trời.

Đoạn thơ không chi biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.

Sáu câu đầu đoạn là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có ,”non xa" "tấm trăng gần” có "cát vàng cồn nọ"và "bụi hồng dặm kia". Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết "Bốn bề bát ngát xa trông". Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với "mây sớm đèn khuya", nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:

Bẽ bàng mấy sớm đèm khuỵa,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bốn chữ "như chia tấm lòng" diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ "Ngựời buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Kiều sao không khỏi cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:

Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.

Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều "Tưởng người…". Với cha mẹ thì nàng đã "xót người…", mỗi đối tượng Kiều có mỗi nỗi thương nhớ riêng.

Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri, Kiều thương Kim Trọng đau khổ "Một trời thu để riêng ai một người". Đối với cha mẹ Kiều "Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn". Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự "dưới nguyệt chén đồng", thương người yêu đaukhổ  "rày trông mai chờ" và "bơ vơ" cô đơn, sầu tủi. Đến bao giờ mới  nguôi mới "phai" được nỗi thương nhớ ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian cách biệt như: "dưới nguyệt chén đồng", "tin sương", "rày trông mai chờ ",”bên tròi góc bể", "tấm son gột  rửa… "đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc.  cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày công mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Các động từ – vị ngữ: "tưởng", "trông", "chờ", "bơ vơ", "gột rửa", "phai" đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiểu nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!

Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: "hôm mai", "cách mấy nắng mưu", các thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như: "sân Lai", "gốc tử" và thành ngữ "quạt nồng  ấp lạnh", đặc biệt hình ảnh mẹ già "tựạ cửa hôm mai" chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi "gốc tử đã vừa người ôm”

Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa "trâm gãy bình tan"nàng vẫn dành cho "người tình chung"bao tình thương nhớ "muôn vàn ái ân”. Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ "buồn trông" xuất hiện bốn lần, đứng ờ vị trí đầu câu 6 của mỗi cặp lục bát. Hai chữ "buồn  trông" là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng "tê tái”'đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số. "Buồn trông“ vì càng buồn thì càng trông, càng trông lại càng buồn. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng "buồn trông". Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:

 Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. "Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện "thấp thoáng cánh buồm xa xa" đầy ám ảnh. "Buồn trông" con thuyền "ai" xa lạ, cánh buồm xa xa "thấp thoáng", Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.

Rồi nàng lại "buồn trông" về phía "ngọn nước mới sa", dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi "về đâu”, đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu, đến đâu , Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Sau hai câu hỏi tu từ về "thuyền ai", về hoa trôi "biết là về đâu?", Kiểu "buồn trông" về bốn phía "chân mây mặt đất" về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo "dầu dầu" của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mật đất một màu xanh xanh.

"Nội cỏ dầu dầu " tàn úa hiện lên giữa màu "xanh xanh " nhạt nhòa của "chân mây mặt đất "chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình, sắc cỏ "dầu dầu" nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:

Sè sè nấm đất bên đường.

Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa "buồn  trông" vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào , "gió cuốn" trên mặt duềnh. Nghe tiếng "ầm ầm "của sóng, không phải là sóng reo mà "sóng kêu". Gió và sóng đang bủa vây "xung quanh ghế ngồi". Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vâv, sắp giáng xuống số phận người con gái "nhỏ bé"đáng thương? Kiểu "buồn trông" lo âu sợ hãi:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bức tranh "nước non người", cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh… mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng, lẻ loi.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có "ma đưa lối quỷ dẫn đường"… đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ Kiều ở lầu  Ngưng Bích như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đau tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.

Các từ láy: bát ngát, bẽ  bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ẩm ẩm", kết hợp với điệp ngữ "buồn trông" đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo. Đó là giá trị văn chương đích thực của đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích.

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2

Sau khi trải qua liên tiếp nhiều tai biến của gia đình và bản thân, Kiều đã dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp phải chịu. Những ngày nàng "'ở lầu Ngưng Bích" là một khoảnh khắc yên thân tạm thời vì được Tú Bà hứa không phải tiếp khách và ở một nơi biệt lập. Nhưng tâm trạng của nàng trong những ngày ở đây là một bi kịch nội tâm đã được Nguyễn Du miêu tả tài tình, trở nên bất tử của loại thơ "tả cảnh ngụ tình" trong văn chương cổ điển. Thúy Kiều một mình đối diện với cảnh vật thiên nhiên và đối diện với lòng mình trong hoàn cảnh đất khách quê người.

Cả đoạn thư là nỗi buồn, một nồi buồn mênh mang vô tận, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, nỗi buồn không thể gì làm vơi bớt, không có ai để chia xẻ.

Ta hãy hình dung lúc này Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích trước một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người thân thuộc, không bàu bạn. Tâm trạng Kiều lại vưa trải qua những đau khổ tủi nhục mà dư vị vẫn còn da diết:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình, nửa cành như chia tấm lòng."

Cảnh thiên nhiên trải rộng mênh mông, trùm phủ lên tâm hồn Kiều, vừa đối lập vừa hòa hợp:

"Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia."

Nàng chỉ thấy non xa với trăng gần, thấy cát vàng bát ngát và bụi hồng xa xôi. Bầu trời thì cao rộng vô tận, Cái văng lặng và mênh mông của vũ trụ, thiên nhiên đối lập với cái bé nhỏ cô độc của số phận làm tăng thêm cảm giác chua xót, đau thương trong lòng Kiều.

Cảnh thì như vậy, còn tình ra sao? linh cảm Kiều là nỗi nhớ. Mà nhớ trước tiên của nàng lúc này là Kim Trọng, sau mới đến cha mẹ:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ."

Nhớ đến Kim Trọng, Kiều nhớ đến cảnh “dưới nguyệt chén đồng", nhớ đến lời thề nguyền dưới trăng đêm nao. Hiểu Kim Trọng, biết rõ tấm lòng chung thủy của chàng, Kiều tin rằng chàng khắc khoải “rày trông mai chờ". Bây giờ nàng đã ở nơi “chân trời góc biển bơ vơ", nhưng nỗi nhớ thương Kim Trọng vẫn là "tấm son” không dễ gì thời gian hay xa cách có thể làm cho nó lạt phai đi. Đối với người yêu là “tưởng nhớ", còn đối với cha mẹ thì Kiều đã hi sinh đời mình để cứu cha khỏi tù ngục. Nay phải lưu lạc nơi đất khách quê người để cho gia đình sum họp, Kiều đã “xót" thương:

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?"

Cũng là "người" nhưng “thi liệu, điển cố" vận dụng ở đây đã phân biệt hai mối quan hệ khác nhau, hai tình cảm khác nhau. Đối với tình yêu, Kim Trọng thì "dưới nguyệt, chén đồng", “tấm son gột rửa". Còn đối với cha mẹ thì “ quạt nồng  ấp lạnh", “sân lai” “gốc tử”.  Đó là những điển cố ước lệ, một phương pháp ẩn dụ quen thuộc của văn học cổ. Cái tài của Nguyễn Du ở đây là sự kết hợp tài tình giữa các điển cố với thành ngữ “rày trông mai chờ”, bên trời góc biển, tựa cửa hôm mai… càng diễn tả sinh động, chân thực sâu sắc nỗi lòng tưởng nhớ người yêu, xót thương cha mẹ. Mấy lời độc thoại nội tâm hết sức tha thiết này cũng đủ cho ta thấy Kiều là hiện thân của tình thương. Càng thương nhớ càng buồn vì nỗi xa cách phiêu dạt. Nỗi buồn xâm chiếm cả lòng Kiều. Nàng trông ra bốn phương trời, đâu cũng chỉ thây buồn. Bốn bức tranh mà Kiều nhìn đến đều được Nguyễn Du bắt đầu bằng hai chữ buồn trông:

"… Buồn trông cửa bể chiều hôm,

… Buồn trông ngọn nước mới sa,

… Buồn trông nội cỏ dàu dàu,

… Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh'

Từng cảnh vật đều nhuốm cái buồn của người ngắm cảnh. Cũng có hoa cỏ, nhưng là hoa trôi cỏ héo. Cũng có trời nước, nhưng mây trời thì sắc màu nhàn nhạt, còn dòng nước thì lạnh lẽo cuốn trôi những cánh hoa rơi. Cũng có gió, sóng nhưng là gió cuốn, sóng xô. Giữa cái thế giới của thiên nhiên ấy, có một nét sinh hoặt của con người; đó là một con thuyền, một cánh buồm. Nhưng nhữns nét đó cũng thật mong manh: cánh buồm thì cô đơn, xa lạ, chỉ thấp thóang chứ không hiện rõ ra. Phải chăng những hình ảnh "hoa trôi man mác" trên dòng nước mênh mông muốn nói đến tâm trạng và số phận vô định của nàng Kiều. Nếu "'nội cỏ dàu dàu" giữa "chân mây mặt đất' gợi cảm giác bi thương, buồn tẻ, thiếu sức sống thì cảnh '‘"gió cuốn mặt ghềnh", “ầm ầm tiếng sóng”lại gợi nỗi hãi hùng về một cuộc đời đầy biến động.

Tiếng sóng ầm vang khắp bốn phía vây chặt lấy Kiều, dội vang khủng khiếp trong hồn Kiều. Phải chăng âm thanh xao động dữ dội này chính là dự báo cho mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng mà Thúy Kiều sẽ phải trải qua.

"Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một đoạn thơ mượn cảnh để nói hộ tâm sự của nàng Kiều, đã tả tình bằng cách tả cảnh, đã thông qua bức tranh thiên nhiên để thể hiện tâm trạng. Đó là bút pháp tài tình của Nguyễn Du, và đạt đến đỉnh cao như vậy vì trước hết nhà thơ đã có cái tình lớn, nỗi niềm xúc động đối với nhân vật, đổi với cuộc đời của những con người có tài hoa mà bất hạnh trong xã hội phong kiến.

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3

Cuối cùng, Kiều nhìn đến cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận. Đây là những câu thơ réo rất bậc nhất về nỗi buồn luân lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:

Buồn trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. Buồn trông là buồn mà nhìn xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như nâng mong một cánh buồm, những cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa.

Nàng lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển (theo Lê Văn Hòe) ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu dạt, không biết về đâu. Kiều ngồi trên lan can làm sao thấy được cánh hoa trên dòng nước. Đây chỉ là cảnh tưởng tượng về số phận mình. Nàng lại trông thấy đồng cỏ úa tàn, chân mây, mặt đất một màu mờ mịt xanh xanh, tưởng như mịt mùng không có chân trời. Nàng lại trông gió cuốn mặt duềnh. Duềnh là chỗ biển ăn sâu vào đất liền, thành vụng (theo Thạch Giang). Gió cuốn mặt duềnh làm cho sóng vỗ dào dạt, ầm ầm… Tất nhiên, dù lầu Ngưng Bích có rất gần bờ biển cũng không thể nghe được tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, dãy hiểm họa, như muốn nhấn chìm nàng xuống vực. Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc và sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh sau này.

Trong đoạn thơ này, không gian bao la rợn ngợp, không một bóng người. Thời gian như đốn lại, không biết bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều lặp lại. Con người trở nên nhỏ bé, bất lực, trơ trọi. Nghệ thuật trùng điệp như kéo dài nỗi buồn vô vọng, vô tận của con người. Tám câu thơ, câu nào cũng vừa thực vừa hư, vừa là thực cảnh, vừa là tâm cảnh. Toàn là hình ảnh về sự vô vọng, sự dạt trôi, sự bế tắc và sự chao đảo, nghiêng đổ. Đây chính là lúc mà tình cảm Kiều trở nên mong manh và yếu đuối nhất, là lúc mà nàng rất dễ rơi vào cạm bẫy, như nàng sẽ rơi vào tay Sở Khanh sau này.

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 4

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm bất hủ đã đi sâu vào lòng con người như một áng văn chương đan xen giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở áng văn này, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã phác họa lên một bức tranh hữu tình, nên thơ với nàng Kiều “tài hoa bạc mệnh” và những nhân vật được đúc tả từ chính những con người trong thế giời hiện thực vô cùng sống động nhưng cũng đầy ai oán. Ai oán một chế độ xã hội bất công, nơi mà con người ta bị dồn nén đến bức đường cùng nhưng ở đó vẫn còn những tia sáng nhỏ nhoi, rực rỡ trong màn đêm đen tối, mù mịt. Trong đoạn trích “Kiểu ở lầu Ngưng Bích”, nhà văn Nguyễn Du đã khắc tả thành công nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình nhưng cũng xót thương cho chính thân phận hẩm hiu và dự cảm về một tai họa đang rình rập ở phía trước. Cảm xúc hỗn loạn, đầy khắc khoải, trăn trở của nàng Kiều đã tạo nên nét độc đáo cho đoạn trích này.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích”  là đoạn thứ 2 của phần “Lưu lạc và gia biến”. Trong đoạn trích, tâm trạng của Thúy Kiều như đan xen giữa: buồn – cô đơn, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình và lo lắng cho số phận của mình.

Tác giả đã thâm nhập vào nhân vật để cùng đồng cảm, cùng hoang mang và lo sợ với Thúy Kiều. Đó là sự thương xót với nhân vật nhưng đồng thời là thể hiện cái nhìn ngợi ca đầy chân trọng, đó như một lời khen, một tiếng yêu thương mà tác giả đã dành cho nhân vật. Trong tiếng nức nở của Thúy Kiều còn có cả tiếng khóc ai oán, bi thương. Bằng thể thơ lục bát và dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du, đã tạo ra một tác phẩm tinh xảo, điêu luyện. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa tính chất bác học và tính dân gian trong cùng một tác phẩm.

Sáu câu thơ đầu hiện lên, khắc tả về một bức tranh thiên nhiên trùng điệp trước lầu Ngưng Bích và tâm trạng trầm lắng của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích phải chăng chính là một nhà tù giam lỏng tuổi thanh xuân của Thúy Kiều. Một bức tranh phong cảnh được mở ra không chỉ bởi chiều rộng mà còn cả về chiều cao và độ sâu. Cái vẻ non nước hùng vĩ, núi non trùng điệp, những thác nước chảy xuống dưới ầm ầm, tạo nên sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Chỉ cần một nét vẽ xa xôi đã gợi ra một không gian hay chính là thế giới nội tâm của Thúy Kiều.

“Cát vàng cồn nọ bụi hồng dậm kia”

Bốn bề đều gợi ra một không gian ngát ngàn hoa lá, một không gian thăm thẳm, gợi ra màu của sự hoang vu, cảnh sắc nơi này càng làm cho Thúy Kiều trở nên buồn hơn, cảm giác cô đơn lại càng khắc sâu. Sự “bẽ bàng”, xấu hổ, hổ thẹn của một con người khi phải bước chân vào lầu xanh.

Câu thơ thứ 4 tràn đầy cảm xúc, một sự giao cảm giữa con người với con người. Thiên nhiên lúc này cũng đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều, muốn chia sẻ với nàng. Sự đồng cảm của nhà thơ với nhân vật càng lớn bao nhiêu thì tình cảm của nhà thơ trong từng câu chữ lại thấm đẫm, não nề đến đó.

Trong tâm trạng bồn bề của Thúy Kiều, có nỗi nhớ Kim Trong da diết. Nàng nhớ Kim Trọng trước không phải nàng không yêu thương gia đình của mình mà trong nàng đang có sự đấu tranh gay gắt giữa chữ tình và chữ hiếu. Nàng thà hy sinh chữ tình để đặt chữ hiếu lên hàng đầu – bán thân mình chuộc cha. Như vậy, với cho mẹ, nàng đã làm trọn chữ hiếu còn đối với người nàng yêu – Kim Trọng, nàng đã phụ lời thề non hẹn biển, nàng cảm thấy mình thật là có lỗi, cảm thấy “thẹn” vì mất đi chữ “trinh” khi bị mắc mưu Mã Giám Sinh.

“Tướng người dưới nguyệt …”

Trong tâm trí của nàng lại hiện ra cảnh mình và Kim Trọng thề thốt dưới ánh trăng, càng băn khoăn, càng nhớ đến thì tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng càng trở nên tha thiết hơn:

“Tình sương luống những …”

Nàng hiểu được tình yêu mà Kim Trọng dành cho mình, thì nỗi nhớ của nàng lại càng trở nên khao khát, như hàng ngàn mũi kim đâm vào ngực làm nàng “nghẹn lại”. Tác giả đã vượt qua mội quan niệm, định kiến của xã hội để có thể đánh giá về vẻ đẹp của Thúy Kiều – thể hiện một cái nhìn đầy nhân đạo với nhân vật của mình.

Trong những câu thơ thể hiện nỗi nhớ gia đình, tác giả đã nhấn mạnh chữ “xót” – một tình cảm máu mủ ruột thịt từ đây bị chia cắt, vì những hủ tục, những bất công trong xã hội mà gia đình của Thúy Kiều hay nạn nhân chính là nàng đã phải từ giã gia đình thân yêu của mình, phải nhịn nhục như bây giờ. Trong những câu thơ, tác giả sử dụng những điển tích, điển cố: “quạt nồng, ấp lạnh, sâm lai, góc tử”- để Thúy Kiều thể hiện tình cảm đối với cha mẹ của mình, sự bất hiếu của một đứa con không thể tự tay chăm sóc cha mẹ khi về già. Sự đau khổ đến tột cùng.

Nàng nhớ người yêu, nhớ gia đình trước rồi cuối cùng nàng mới tiếc thương cho cái số phận bất hạnh của mình, tưởng đâu khi gặp được Kim Trọng cuộc đời nàng đã bước sang trang mới, những biến cố đã xảy đến với gia đình Thúy Kiều, khiến cho nàng đang bước trên những con đường tăm tối không thấy ngày mai.

Tác giả sử dụng bức tranh tứ bình: bốn phương trời khác nhau, nhưng sao nhìn đâu cũng thấy đau đớn, nhìn đâu cũng thấy bế tắc, tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ được ngân lên như chính tiếng lòng ai oán của nhân vật.

Ánh mắt buồn thẳm của Thúy Kiều không biết bấu víu vào đâu, nàng trông về phía cửa bể, nàng khao khát nhìn con thuyền phía xa để mong một sự giải thoát. Nhưng hình ảnh đó chỉ thấp thoáng, xa xa càng làm tăng khoảng cách giữa Thúy Kiều với mọi vật bị vùi tắt. Những tia hy vọng đã bị tắt lụi, nàng lại đi vào bế tắc, đau khổ.

Ánh mắt của Thúy Kiều lại tìm đến hình ảnh “cánh hoa trôi nổi, lên – xuống” càng làm cho nàng dự cảm hơn về tương lai mù mịt của mình.

Cánh hoa yếu ớt ấy có phải chính là tâm trạng buồn đau hay chính là cuộc đời của Thúy Kiều, bị vùi dập mà không tìm thấy một bến bờ dành riêng cho mình. Nàng bắt gặp “nội cỏ chân mây”. Nội cỏ chỉ gợi lên tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều, cái sầu não, đau thương mà chỉ muốn bao trùm tất cả vạn vật xung quanh.

“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Hình ảnh chân mây chỉ nhuốm một màu xanh, phải chăng chính là dự cảm về một tương lai mù mịt phía trước dành cho cuộc đời của nàng.

Tiếng thác nước ầm ầm dội xuống, tiếng gió cuốn – tất cả như một cơn giận dữ của thiên nhiên. Một sự kết hợp giữa tả cảnh và tả tình. Tiếng thác nước chảy phải chăng chính là tâm trạng hoảng loạn, lo lắng của Thúy Kiều khi nàng dự cảm tay ương sắp đổ sập xuống nàng.

Một bức tranh tứ bình được thể hiện ở mức độ tăng tiến thể hiện diễn biến tâm trạng hết sức phức tạp, hỗn loạn trong lòng Thúy Kiều. Tác giả sử dụng từ “buồn trông” khiến mỗi câu thơ ngày càng trở nên ai oán, nức nở như tiếng lòng của nhân vật. Vẫn biết phía trước là tai ương, là hiểm họa nhưng không có cách nào có thể trốn thoát được.

Tác giả tập trung đi sâu vào diễn biến tâm lý của nhân vật. Vừa mới bước chân ra cuộc đời đã bị cuộc đời đã bị chính cái cuộc đời tàn nhẫn, vùi dập không có cách nào có thể giải thoát được. Tác giả gửi vào đó bao nhiêu là sâu sắc, cảm thông tình yêu với nhân vật, sự đồng cảm. Đây không chỉ dành cho số phận của người phụ nữ mà còn chính cho số phận của con người. Đây là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật tả hình, nghệ thuật miêu tả và phân tích diễn biến nội tâm nhân vật. 

Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 5

Một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người, không một tâm hồn thân thuộc, bầu bạn, trong khi dư vị đau khổ, tủi nhục vừa trải qua vẫn còn da diết bê bàng mây sớm đèn khuya. Một khung cảnh thiên nhiên trải rộng mênh mông bộn bề bát ngát xa trông thâu gồm cả ngọn núi xa xăm và ánh trăng gần gũi vào bầu, trời cao rộng vô tận. Cái vắng lặng của thiên nhiên và cái mênh mông của vũ trụ khắc sâu thêm cảm giác cô đơn trong tâm hồn Thúy Kiều và dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót, đau thương. Ý nghĩ đầu tiên của Kiều lúc này là hướng về Kim Trọng và sau đó mới đến song thân. Mặc dầu từ người được láy lại ở cả hai đầu khổ thơ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Xót người tựa cửa hôm mai.

Những thì liệu, điển cố vận dụng ở đây xác định hai mối quan hệ tình cảm khác biệt của nàng. Với Kim Trọng là: dưới nguyệt chén đông tâm son gột rửa, còn khi nói về cha mẹ là: quạt nồng ấp lạnh, sân Lai, gốc từ. Đó cũng là toàn bộ những từ ngữ, điển cổ thì liệu Trung Hoa xuất hiện trong đoạn thơ tả cảnh ngụ  tình này. Ở đây chủ yếu xuất hiện những từ thơ mang phong cách thành ngữ, tục ngữ Việt Nam diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu, xót thương cha mẹ. Tâm tư ấy được biểu đạt qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như  rày trông mai chờ, tựa của hôm mai, cách mấy nắng mưa, bên trời góc bể… Đoạn độc thoại ngắn gọn, tám câu thơ lục bát nhưng có giá trị nghệ thuật lớn lao. Nguyễn Du chú trọng miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại. Ngôn ngữ độc thoại trong Truyện Kiều chủ yếu xuất hiện ở một Số nhân vật liên quan đến những chặng đường đặc biệt trong vận mệnh Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Hoạn Thư, Mã Giám Sinh. Những nhân vật này, do tính cách có ý nghĩa tiêu biểu cho từng loại người, có vị trí đặc biệt trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm, có số lượng ngôn ngữ độc thoại lớn nhất. Nguyễn Du thường để Thúy Kiều độc thoại ở những chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh nhân vật. Diễn biến nội tâm qua ngôn ngữ độc thoại hết sức tự nhiên, lô-gíc. Những đoạn nhân vật độc thoại chủ yếu được diễn tả qua hệ thống ngôn ngữ dân tộc bởi vì hơn đâu hết, nhân vật bộc lộ những cảm xúc, những tư duy chân thực nhất khi con người đối diện với chính mình… Đúng như Nguyễn Du đã viết, nội tâm Thúy Kiều hết sức đa dạng – tâm trạng nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng này bộc lộ chân thành tình yêu tha thiết sâu sắc mặc dầu vô vọng và đớn đau đối với Kim Trọng. Nàng xót thương da diet va day dứt khôn nguôi về nỗi không thể làm được nhiệm vụ quạt nồng ấp lạnh đối với song thân. Tính cách vị tha cũng khiến nàng luôn luôn tự đặt mình vào hoàn cảnh bi kịch của người thân: nàng tưởng tượng đến nỗi khắc khoải rày trông mai chờ của người tình cũng như hình bóng tội nghiệp tựa của hôm mai của người đã sinh dưỡng đẻ nặng. So sánh với câu thơ: Lòng lão thân buồn khi tựa của, hình tượng người mẹ già tựa cửa hôm mai ở đây tuy không được miêu tả cụ thể bằng từ ngữ buồn thương, nhưng chất bi kịch có phần tê tái, sâu xa hơn bởi chiều dài của thời gian như đã phân tích ở trên. Tám câu thơ cuối cùng của toàn đoạn thơ được xây dựng bởi điệp từ buồn trông ở các câu sáu nhằm diễn tả nét chủ đạo chi phối tâm trạng Thúy Kiều. Dường như ở đây không có con người, chỉ có cảnh vật hay đúng hơn, chỉ còn tâm trạng. Đây là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tỉnh thành công nhất trong Truyện Kiều.

Với quan niệm thẩm mĩ truyền thống, Nguyễn Du luôn luôn lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự hoạt động của nội tâm nhân vật. Tính chất truyền thống ấy biểu hiện qua sự chi phối của lô-gíc nội tâm đối với lô-gíc cảnh vật khách quan, qua bút pháp phác họa và khái quát, qua hình tượng và ngôn ngữ ước lệ công thức.

Từ khóa tìm kiếm

  • dàn ý phân tích kiều ở lầu ngưng bích
  • phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bài viết liên quan

0