21/02/2018, 09:13

Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo

– Bài số 1 Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc ...

– Bài số 1

Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ, vừa độc đáo. Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, chuyên viết về hai đề tài: người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ và người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trước Cách mạng tháng Tám. Trong đó, Chí Phèo là 1 kiệt tác trong văn xuôi VN hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng khổ tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà k đc làm người. Câu truyện có nhiều bi kịch, nhưng đặc biệt, trong đó quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch cự tuyệt của Chí Phèo trong tác phẩm là một trong những đọan thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Chí Phèo, nguyên là một đứa con hoang, bị bỏ rơi nơi lò gạch cũ khi vừa mới lọt lòng, vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện nhưng đã bị xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời. 

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống kiếp thú vật, rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác ở một bờ bụi nào đó. nhưng bằng tài năng và nhất là bằng trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Ông đã soi rọi ánh sáng của ty thương vào tận đáy tâm hồn đen tối của con quỷ dữ làng Vũ Đại. Trong một đêm say, hắn tình cờ gặp Thị Nở – người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ngẫu nhiên ấy, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt đc khơi dậy. Chút ty thương mộc mạc, tự nhiên cộng vs sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở đã đánh thức lương tri, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người Chí. Chính nhờ cuộc gặp gỡ đó, đã thức tỉnh phần người trong Chí, giúp Chí cởi bỏ cái vỏ quỉ dữ để sống lại làm người, khao khát hoàn lương, lương thiện.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật. Tỉnh rượu, Chí thấy lòng chợt bâng khuâng 'mơ hồ buồn'. Những lần trước, mỗi khi tỉnh rượu, hắn lại uống, vì thế say kế tiếp say. Còn lần này, Chí Phèo tỉnh rượu với trạng thái khác hẳn “người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc; hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu như những người ốm sợ cơm”. Sau bao năm, lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy, chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe thấy mọi âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh quen thuộc ấy hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay Chí mới cảm nhận và nghe thấy, vì hôm nay Chí đã hết say. Phải chăng, những âm thanh ấy chính là tiếng gọi náo nức, thiết tha, tiếng gọi thôi thúc của cs đã vang lên rộn ràng trong tâm hồn vừa đc khơi dậy của Chí… Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong qúa khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào 'có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…' bỗng dưng trở lại vs Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”. Tương lai đối với hắn, còn đáng buồn hơn, hắn còn lo sợ bởi hắn đã trông thấy trước “tuổi già, đói rét và ốm đau” và nhất là “cô độc”. Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, Chí đã tỉnh táo và triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của 1 con người, Chí đang thức tỉnh một cách tòan diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Ngòi bút Nam Cao ở đây thật ấm áp, thể hiện từng biểu hiện của sự thức tỉnh ở Chí Phèo. Ông thật sự rất yêu quý những người lao động chân chính. Vì hoàn cảnh mà họ bị đẩy vào con đường tội lỗi. Nhưng ngay cả khi bị cuộc đời làm biến dạng nhân hình và làm méo mó nhân tính thì Nam Cam vẫn nhìn thấy vẻ đẹp trong sáng luôn tiềm ẩn trong con người họ. Họ chỉ cần găp điều kiện thuận lợi thì phần người sẽ bừng dậy một cách mạnh mẽ.

Đúng lúc ấy thì Thị Nở bưng đến cho Chí Phèo bát cháo hành đang nghi ngút khói. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Việc làm này của thị khiến hắn từ 'hết sức ngạc nhiên' đến xúc động 'thấy mắt mình như ươn ướt' bởi vì một lẽ hết sức đơn giản “lần đầu tiên hắn được người ta cho…”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà'. Hắn còn cảm nhận về hương vị cháo hành, nó thơm và ngon lắm. Thị Nở còn cảm nhận thấy hắn rất hiền. Dưới ánh sáng của ty, thị Nở bỗng trở thành 1 người đàn bà có duyên, cx biết lườm yêu, biết e lệ, biết 'ngượng ngùng mà thinh thích khi nghe 2 tiếng 'vợ chồng'. Bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong hắn cx hồi sinh. Chí đã sống đúng với con người thật của mình, trở lại nguyên hình của anh canh điền ngày xưa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương ấy làm tâm trạng Chí đi từ xúc động đến ăn năn, hồi tỉnh. Ty của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao.. Thị có thể sống yên ổn vs hắn thì sao người khác lại k thể đc'. Cùng với mong ước được làm người lương thiện, Chí khao khát hạnh phúc và một mái ấm gia đình. Và hắn nói “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”. Lúc này nội tâm của Chí đã bừng tỉnh, lương tri của hắn đã trỗi dậy mà thôi thúc tình cảm hắn. Hắn thật sự muốn 'thế này' đó là muốn được ăn cháo hành, được sống bên cạnh thị Nở, được thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương và được làm nũng với thị..  “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” một mái ấm gia đình vui vẻ, hạnh phúc, câu nói này giống như một lời cầu hôn của Chí với thị Nở-một lời cầu hôn rất canh điền, chất phác, giản dị. Hắn muốn sống như 1 con người đúng nghĩa, khao khát đc trở lại với cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với cuộc đời. Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới 1 tương lai tốt đẹp. Chính tình người của Thị Nở đã thức tỉnh hồi sinh tình người trong Chí Phèo, thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực thể, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo hiện nên ý nghĩa của sự hồi sinh là sự khẳng định sức sống của thiên lương, của lòng lương thiện.

Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo, rốt cuộc thì ngay chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu hắn. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cũng như mọi người dân làng Vũ Đại khác, bà đã quen coi Chí là 1 thằng lưu manh, hơn thế nữa là 1 con quỷ dữ. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng 'dướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng'. Như thế, Chí Phèo thật sự rơi vào 1 bi kịch tinh thần đau đớn. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong ước được trở lại cuộc sống lương thiện cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Định kiến xã hội thông qua bà cô thị Nở không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hy vọng. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.

Chí Phèo 1 lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Chí Phèo lại uống rượu trong nỗi tuyệt vọng, đau đớn tột cùng 'ôm mặt khóc rưng rức'. Chí Phèo uống thật say, nhưng lần này không như mọi lần, càng say thì Chí lại càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người của mình rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: 'Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh vết chai trên mặt này?… Tao k thể làm người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không!' Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Căm thù cao độ và k còn lối thoát. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Chí đã chết khi cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt trước mặt anh k cho a trở lại. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận được cuộc sống của 1 con quỷ dữ nữa, a muốn hoàn lương mà xã hội đâu cho, bởi cái khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa về cuộc sống làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!

Với nhân vật Chí phèo, Nam Cao đã đặt ra bi kịch của người nông dân trước cách mạng: đó là bi kịch con người sinh ra là người mà không được làm người. Điều này thể hiện sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao với khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện thực xã hội ấy. Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc đc thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo. Tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết rất chân thực, miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình cộng với cốt truyện với các tình tiết hấp dẫn, biến hóa bất ngờ.

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh hồi sinh và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và sự bế tắc của những khát vọng của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.

– Bài số 2

Có ý kiến cho rằng: Nếu không viết: “Chí Phèo”, Nam Cao đã để lại cho Văn học Việt Nam một khoảng trống lớn. Chí Phèo là tác phẩm đầu tay của Nam Cao trình làng với bạn đọc, ngay từ khi xuất hiện nó đã trở thành một vấn đề, một kiệt tác của trào lưu văn học hiện thực. Đây là tác phẩm tiêu biểu viết về người nông dân bởi đến đây người đọc mới hiểu thế nào là tận cùng nỗi khổ của người nông dân Việt Nam trong xã hội phong kiến. Nếu như ở những tác phẩm của các nhà văn hiện thực khác: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… hình ảnh người nông dân chỉ hiện lên với những áp bức bất công, bị dồn đến bước đường cùng, nhưng họ vẫn còn giữ được con người mình, nhưng đến với Nam Cao thì đã có những khám phá phát hiện mới mẻ, ông không chỉ phát hiện ra bi kịch bị bần cùng hóa mà còn khám phá phát hiện ra bi kịch bị lưu manh tha hóa bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân.

Mở đầu trang văn, Nam Cao đã để cho Chí Phèo xuất hiện bằng một hình ảnh hết sức sống động độc đáo: Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi: tiếng chửi của Chí Phèo ngay lập tức cho người đọc hình dung về một sự việc bất bình thường. Vì lẽ gì mà một con người phải cất lên những tiếng chửi như vậy? Tại sao những tiếng chửi đó lại không được đáp trả…? Nhưng chúng ta sẽ thấy tiếng chửi này không phải là bâng quơ, không đơn giản mà nó rất logic, rất có dụng ý. Ban đầu hắn chửi trời đến chửi đời rồi chửi ngay tất cả làng Vũ Đại… nhưng đối tượng của những tiếng chửi này là mơ hồ không xác định đến khi hắn chửi không biết đứa nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ thế này… thì đối tượng đã được xác định. Chí Phèo chửi để nhận thức nguyên nhân dẫn đến bi kịch của bản thân. Nhưng ngay lập tức hắn hiểu rằng tiếng chửi của hắn là vô vọng, hắn thấy thấm thía nỗi khốn khổ của số phận, hắn đã phải cất tiếng chửi để thèm mong có ai đó chửi lại hắn, để hắn có thể được giao tiếp với đời, với người. Vậy mà không người nào chịu chửi lại hắn, có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoái không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, còn bằng lòng giao tiếp đối thoại với hắn. Chí chửi cả làng Vũ Đại với hy vọng sẽ có ai đó chửi lại. Nhưng hắn chỉ nhận lại một sự im lặng đáng sợ, và Chí vẫn còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu.

Bằng cách mở đầu truyện độc đáo thế này, tác giả không chỉ giới thiệu mà còn bắt đầu hé mở cho người đọc thấy tình trạng bi đát của một số phận, đó là số phận người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo ban đầu tất cả là con số không: không nhà, không cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một tấc đất cắm dùi… Nhưng đó mới chỉ là mở đầu, nỗi khổ đau đớn nhất của Chí Phèo là bị cả xã hội quay lưng lại, bị cướp mất linh hồn người, bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Từ quá khứ đến hiện tại, từ bản chất đến hiện tượng Chí Phèo đã biến đổi. Trong quá khứ Chí Phèo là một con người hiền như cục đất, có bản chất lương thiện, từ khi vào làm canh điền cho nhà Bá Kiến, rồi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau 7-8 năm ở tù ra, Chí Phèo đã rơi vào vô thức và bị lưu manh tha hóa, tất cả mọi hành động của Chí Phèo đều phải thông qua rượu, đều diễn ra trong vô thức: đâm thuê, chém mướn, cướp bóc, rạch mặt ăn vạ… Những tội ác của Chí cứ đầy lên trong con mắt người dân làng Vũ Đại.

Tưởng như số phận cuộc đời của Chí Phèo sẽ mãi mãi trượt dài trên cái dốc lưu manh tha hóa và rơi vào vực sâu của kiếp sống tội lỗi; nhưng sự xuất hiện Thị Nở đã đưa Chí Phèo từ vực sâu của kiếp sống lưu manh tha hóa đến bến bờ của cõi đời lương thiện. Đây có thể xem là một sự kiện trọng đại, một biến cố mở ra một bước ngoặt của cuộc đời Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở lại với kiếp người. Sự xuất hiện của Thị Nở cùng bát cháo hành đã biểu hiện cho sự đồng cảm và tình người nhân hậu. Người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn kia lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại biết được sao có lúc nó hiền đến thế. Hơi ấm của bát cháo hành chính là hơi ấm của tình người nhân hậu đã làm cho con người lương thiện bấy lâu chìm khuất trong hình ảnh của con quỷ dữ, thằng đầu bò đã phục sinh, giờ đây sức sống tâm hồn đã trỗi đậy trong Chí Phèo.

Sau khi con người lương thiện phục sinh, tính cách tâm hồn con người Chí Phèo đã tỉnh dậy lắng nghe những âm thanh bình dị mộc mạc hàng ngày mà lâu nay Chí quên lãng. Chí bỗng hồi tưởng về những kỉ niệm của thời êm đẹp:Ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm….Đáng lẽ ra hắn cũng sẽ có được một cuộc sống bình thường như bao người khác nhưng giờ đây khi hắn tỉnh dậy hắn mới thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc hắn vẫn đang sống bên lề cuộc đời một cách khốn nạn, hắn cảm thấy buồn, cảm thấy tủi nhục. Hơn lúc nào hết, lúc này hắn mong ước được làm người, được trò truyện…

Nhưng những giây phút được yêu của cuộc sống lứa đôi Chí Phèo – Thị Nở thật ngắn ngủi, hạnh phúc vừa hé mở đã khép lại. Chí Phèo và Thị Nở đã dắt tay nhau tới ngưỡng cửa cuộc đời nhưng bị từ chối phũ phàng bởi định kiến xã hội mà bà cô Thị Nở là đại diện. Khi tỉnh dậy và đối diện với hiện thực, Chí Phèo mới giật mình và nhận thức một cách sâu sắc hơn, rằng hắn đã bị từ chối khỏi cộng đồng và không thể trở thành người lương thiện trong con mắt mọi người được nữa.

Khi con người lương thiện trong Chí Phèo đã phục sinh thì hắn lại càng khao khát được làm người hơn bao giờ hết. Nhưng khao khát vẫn chỉ là khao khát, như ánh cầu vồng vụt tắt sau cơn mưa, như ngọn lửa nhỏ bị dập tắt khi mới vừa được nhen nhóm khát vọng làm người của hắn đã bị cự tuyệt hoàn toàn. Chí lại trở về với sự cô độc, và đau đớn, xót xa khi nhận ra mình đã không còn đường về quay trở lại: Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những hết mảnh chai trên mặt này? Đây chính là sự tự ý thức cao độ của Chí Phèo về bi kịch của bản thân mình. Hình ảnh những vết mảnh chai trên mặt chính là dấu vết của những năm tháng tội đồ. Hình ảnh này đã hằn sâu trong tâm trí của người dân làng Vũ Đại và trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với họ. Trong con mắt của mọi người, Chí Phèo là con quỷ dữ. Thằng đầu bò và hình ảnh này không thể tẩy xóa đi được nữa. Chính định kiến đã ngăn cản bước chân của Chí Phèo tìm về với cõi đời lương thiện.

Hơn ai hết, Thị Nở là người đem lại cho Chí Phèo sự đồng cảm về tình người nhân hậu, nhưng chính Thị Nở cũng là người đẩy Chí Phèo đến bờ vực của cái chết. Thị vừa là phương tiện, là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến.

Đến đây, Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách cái Và cuối cùng, Chí Phèo đã tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách của mình Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến – kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn – một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại.

Hành động tự sát của Chí Phèo là cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con người hiền như cục đất và con quỷ dữ thằng đầu bò. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết, nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.

– Bài số 3

Khi đọc Chí Phèo của Nam Cao, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã, nhận thấy một điều thật sâu sắc: Chí Phèo là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khôn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con “quỷ dữ”. Trong muôn vàn nỗi khôn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, nỗi đau khổ lớn nhất có lẽ chính là cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người thật xót xa, nhức buỗt của Chí cứ mãi hoài cắn xé trên từng câu chữ của Nam Cao.

“Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người. phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả đã thật sự bị ám ảnh bởi tiếng chửi rất lạ của một nhân vật chưa được nêu tên: “Hắn vừa đi vừa chửi… Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời… Hắn chửi tất cả làng Vũ Đại… Hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn… Hẳn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại, của Chí trong cơn đau bi cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài). Chí chửi làng (cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người)… Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí. Chí một mình đôì diện với sa mạc cô đơn. Giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống, dù để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô thức, để tìm ra căn nguyên của khổ đau. Nhimg khôn khổ thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ biết cho mà còn biết giữ”… Giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ có cơ hội không xảy ra. Nhưng chuyện gì xảy ra thì nó đã xảy ra… Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấủ hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.

Chí là một. “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thây hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà goá bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sông kiếp bơ vơ “đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ”. Đến tuổi trưởng thành, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ cường hào lọc lõi khét tiếng độc ác, gian hùng. Cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động, Chí trở thành người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn. Anh canh điền giàu lòng tự trọng ây “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”, từng khát khao “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Vậy mà, nghiệt ngã thay, cuộc đời đã không dành cho Chí những cái rất đỗi dung dị, bình thường ấy.

Chỉ vì cơn ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn phong kiến, cường hào địa chủ giết chết phần người trong Chí Phèo, biến hắn từ một người nông dân lương thiện thành tên lưu manh, bị loại bỏ ra ngoài xã hội con người. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người.

Trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo xuất hiện trong một bộ dạng thật kì quái: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà lại rất câng câng, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết”. Đó là mặt của “một con vật lạ”. Lại nữa, “hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ trông gớm chết”. Đó là hình hài của một kẻ côn đồ, hung hãn, chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đểu. Nhưng, cụ Bá khôn róc đời đã ma mãnh cướp luôn của Chí cái quyền được trả thù kẻ có thù với mình. Chí Phèo lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Từ đó, hắn chìm trong cơn say. Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những năng lực vốn có của con người: năng lực cảm xúc, ý thức, hầu như bị tiêu huỷ, chỉ còn lại một năng lực đầm chém, phá phách trong những con say không bao giờ dứt. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị huỷ hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại “đều sợ và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua”. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ.

Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp Thi Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu biết chính xã hội thực dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn của Chí bằng cách tước đoạt dần quyền làm người của Chí. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hoá, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước được trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn” lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của Thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của Thị Nở đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở, Chí đã nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Vậy đó, chỉ cần một sự thương yêu – dù chỉ là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hoá của tình thương quả là vô biên. Nam Cao đã thực sự hoá thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm b'ị cự tuyệt quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí trở lại làm người. Tình yêu của Thị Nở đã xây cho Chí một chiếc cầu nôi để làm hoà với thế giới người.

Nhưng bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể thuộc về Chí. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau đớn nhận ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người. Xã hội đã cướp đi quyền được sống, được làm người của Chí và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ…đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí đau xót nhận thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”. Lưỡi dao của Chí đã vung lên để tiêu diệt Bá Kiến và sau đó là kết liễu đời mình. Vậy là cuối cùng Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết thê thảm như một con vật của Chí là bi kịch lớn nhất của nhân vật này và cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.

Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hoá. Đồng thời, qua đó, Nam Cao còn tỏ rõ sự đồng tinh với khát vọng lương thiện và lên án xã hội vô nhân đã vùi dập nhân tính làm tha hoá con người. Hơn nữa, nhà ván đã tìm thấy dưới đáy tâm hồn tưởng như cằn cỗi của người lao động của người lao động vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm. Từ đấy, vút lên một tiếng kêu khẩn thiết hãy cứu lấy con người. Điều ấy làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà nhân đạo lớn nhất, sâu sắc nhất của văn học hiện thực phê phán. Và “Chí Phèo” trở thành kiệt tác của nền văn học thế kỉ này.

Chí Phèo đã chết trên ngưởng cửa trở về với “xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện”. Đó cũng là lúc người đọc thấm thìa đến tận củng bị kịch bị cự tuyệt quyền làm người thật quá phũ phàng, xa xót của Chí. Nỗi đau ấy cứ âm ỉ mãi khi mà cùng với thời gian, khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc mãi. Nỗi đau của Chí Phèo đã trở thành nỗi đau của toàn nhân loại. Ngòi bút của Nam Cao cứ sắc nhọn mãi cho đến tận bây giờ.

– Bài số 4

Trong giai đoạn văn học 1930-1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm “Chí Phèo“ đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là  "Cái lò gạch cũ“, sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi“, sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành “ Chí Phèo“, tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn

Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mẫu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn “Chí phèo“, tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mẫu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự đinh, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vằng. Con người đến với cuộc đời như bị quẳng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ “trông đặc như 1 thằng sắng đá“ rồi sau đó bá Kiến thực hiện nốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự “Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo“ rồi hắn còn suốt ngày sau rượu “cứ rượu vào là hắn chửi“. Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì “hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện“ Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bỏi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khái thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loại người.

Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được “1 người đàn bà cho“. Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. “Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao“ hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. “Thị Nở có thể sống yên ổn với hẵn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng“. Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bị kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi

Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi “ngẩn người“, hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát  tuyệt tình, hắn rơi vào tình trang tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc “Tao muốn làm người lương thiện“, câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, “chém túi bụi vào người bá Kiến“ rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời.

Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiên của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đối của con người. 

Vũ Hường tổng hợp

0