21/02/2018, 09:13

Phân tích nhân vật ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

– Bài số 1 LẬP DÀN Ý Mở bài Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chông Pháp, chống Mĩ cũng như trong hoà bình. Truyện ngắn Chiếc lược ngà ...

– Bài số 1

LẬP DÀN Ý

Mở bài

Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến chông Pháp, chống Mĩ cũng như trong hoà bình.

Truyện ngắn Chiếc lược ngà được viết năm 1966 (khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ) và được đưa vào tập truyện cùng tôn.

Truyện thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

Ông Sáu là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Ông có nhiều phẩm chất cao đẹp. Phân tích nhân vật này, chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp của người chiên sĩ, người cha trong cuộc kháng chiến chông Mĩ.

Thân bài

Hoàn cảnh xuất thân của nhân vật

  • Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ. Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chông Pháp và chống Mĩ.

  • Ông ra đi đánh giặc năm 1946 mãi đến năm 1954, ông mới được về thăm quê một vài ngày.

  • Ngày ông đi, đứa con gái của Ông mới một tuổi. Khi con gái lên 9, ông mới gặp lại con.

  • Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc. Ông nhận nhiệm vụ ở lại miền Nam hoạt động bí mật.

Hoàn cảnh của ông Sáu cũng chính là hoàn cảnh của biết bao người dân Nam Bộ trong chiến tranh. Chiến tranh gây ra biết bao cảnh chia lìa. Những người dân lao động bình thường đã sẵn sàng xa gia đình, quê hương để lên đường tham gia kháng chiến.

Ông Sáu là người có tình yêu quê hương, đất nước

  • Yêu quê hương, đất nước, ông sẵn sàng xa gia đình ra đi chiên đấu để bảo vệ quê hương.

  • Tình yêu quê hương đất nước đã giúp ông vượt qua những năm tháng gian khổ, thiếu thôn: trong những ngày ở rừng, ở khư căn cứ, bị giặc khủng bố liên miên, ông đã cùng đồng đội phải ăn bắp, ăn mì thay cơm… cái chết bủa vây. Đạn bom của kẻ thù không biết sẽ cướp đi mạng sông của mọi người bất kì lúc nào, ông vẫn luôn kề vai sát cánh cùng đồng đội trong chiến đấu.

  • Ong đã hi sinh vì quê hương, đất nước trong một trận càn lớn của quân Mĩ – nguy.

Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiên sĩ, đồng bào ta sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì đất nước.

Ông Sáu là người có tình yêu con tha thiết

Tình cảm sâu nặng của ông Sáu đối với con được thể hiện rõ nét qua lần ông về thăm nhà và khi ông ở trong rừng tại khu căn cứ.

* Tình yêu của ông Sáu đối với con trong những ngày ông về thăm quê.

  • Tình yêu con tha thiết thể hiện qua tâm trạng, hành động của ông Sáu khi ông được về thăm nhà: Đến lúc dược về, cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh; không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lẽn, xô chiếc xuồng tạt ra; Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! con. Giọng lặp bặp run run: ba đây con!.

Phải là người yêu con, nhớ con tha thiết, ông Sáu mới có tâm trạng, hành động và những lời nói như vậy.

  • Tình yêu con tha thiết thể hiện qua những ngày ông ở nhà, và ngày ông lên đường.

+ Ông Sáu luôn tìm cách gần gũi con: Suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào củng vỗ về con.

+ Trước khi đi anh muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh chí đứng nhìn nó. Anh nhìn nó với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu.

+ Khi con gái ôm chặt lấy anh, Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con.

Còn gì cảm động hơn khi lúc con gái nhận ra ông thì lại là lúc hai cha con phải chia tay. Có lẽ độc giả sẽ không bao giờ quên cảnh chia tay đặc biệt đó.

* Tình yêu con tha thiết của ông Sáu thể hiện sâu sắc khi ông ở căn cứ.

Những ngày ở rừng khu căn cứ lúc nhớ con, anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò anh.

Khi có được mảnh ngà voi, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một dứa trẻ được quà. Bằng tình yêu thương của người cha, ông Sáu đã từng ngày từng ngày ngồi cưa mảnh ngà thành một chiếc lược dài độ hơn một tấc. Trôn sông lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu con của ba. Những đèm nhớ con, anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thèm bóng, thêm mượt. Có cây lược, anh càng mong gặp lại con. Chiếc lược ngà đã trở thành vật quý giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ thương mong đợi của người cha đôi với đứa con xa cách… nhưng rồi, một tình cảnh đau thương đã đến với cha con ông Sáu: Ông đã hi sinh khi chưa kịp trao vào tay con gái chiếc lược ngà. Trong giờ phút cuối cùng, không còn dủ sức trăng trối lại diều gì, hình như là chí có tình cha con là không thể chết dược, anh đưa tay vào túi, móc cây lược dưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu.

Kết bài

Qua phân tích, ta thấy ông Sáu là người dân Nam Bộ hiền lành chất phác.

Với lòng yêu quê hương đất nước cao đẹp, ông sẵn sàng xa gia đình, xa đứa con gái yêu quý của mình lên đường đi kháng chiến.

Ông còn là người có lòng yêu con tha thiết, sâu nặng. Tình cảm của ông dành cho con không có gì sánh nổi.

Câu chuyện không chỉ nói lôn tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thìa những đau thương, mất mát, éo le mà chiên tranh đã mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Sức hấp dẫn của truyện còn bởi tác giả xây dựng được cốt, truyện chặt chẽ, có những yêu tô’ bất ngờ nhưng hợp lí. Truyện còn thành công bởi ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả thật sắc sảo.

– Bài số 2

“Chiếc lược ngà “ là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết về tình cha – con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ. Ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy.

Ông Sáu, một nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước đã tham gia 2 cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi sinh. Ra đi đánh giặc từ năm 1946 mãi đến năm 1954, hòa bình lập lại, ông mới được về thăm quê một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của ông mới lên một tuổi, ngày về thì con đã 8, 9 tuổi. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra từ được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe con cất tiếng gọi “ba” một tiếng cũng không trọn vẹn! Đó là bi kịch thời chiến tranh. Lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ “nhận ra” ba mình và kêu thét lên: “Ba… ba!”. Ông ôm con “rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Ông Sáu đã ra đi với nỗi nhớ thương vợ con không thể nào kể xiết. Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo dài trên má phải – vết thương chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa! Ông đã ra đi, mang theo hình ảnh vợ con, với lời hứa mang về cho,con gái chiếc lược cùng với nỗi ân hận day dứt “sao mình lại đánh con” cứ giày vò ông mãi. Nỗi đau, nổi nhớ thương và mất mát… do quân giặc đem đến cho ông Sáu, cho bao người lính, cho bao bà mẹ, em thơ trên khắp mọi miền đất nước ta có bao giờ nguôi! Sự hi sinh của thế hệ đi trước để làm nên độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình là vô giá. 

Sau năm 1954, ông Sáu không tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ mói ở lại miền Nam “nằm vùng “ hoạt động bí mật. Trong những ngày ở rừng, ở cứ bị giặc ruồng bố triền miên. Thiếu gạo phải ăn bắp. Gian khổ và nguy hiểm. Cái chết bủa vây cuộc chiến đấu thầm lặng. Ông Sáu vẫn không nguôi nhớ vợ con. Ông đã biến vỏ đạn 20 li của giặc Mĩ thành chiếc cưa nhỏ, đã tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo như một người thợ bạc chế tác khúc ngà voi thành một chiếc lược ngà xinh xắn có khắc dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba. Chiếc lược ngà với dòng chữ ấy mang theo bao tình cảm sâu nặng của người cha đối với đứa con bé bỏng. Tình thương con của ông Sáu thật vô cùng tha thiết. Điều đó cho thấy, ông Sáu cũng như hàng triệu chiến sĩ, đồng bào ta hi sinh chiến đấu vì đất nước và dân tộc, vì hạnh phúc gia đình, vì tình vợ chồng, tình cha con.

Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng của người lính về tình phụ – tử sâu nặng mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. Chính vì thế, khi bị trúng đạn máy bay Mĩ bắn vào ngực, lúc hấp hối, ông “đưa tay vào túi, móc cái lược đưa cho bạn, nhìn bạn hồi lâu rồi tắt thở… ông Sáu đã hi sinh trong những ngày đen tối vì gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng giữa rừng sâu”. Nhưng chỉ có “tình cha con là không thể chết được!”.  

Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong truyện “Chiếc lược ngà“ sâu nặng về tình cha – con. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chúng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng đi trước mở đường đã nếm trải nhiều thử thách, gian khổ và hi sinh.

Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thêm thấm thía.

– Bài số 3

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ. Đoạn trích SGK ngữ văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.

Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!

Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu.

Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mã bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại.

Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.

Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rẳng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!.

– Bài số 4

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn Nam Bộ, các tác phẩm của ông chủ yếu viết cho con người và cuộc sống ở Nam Bộ. Trong đó ” chiếc lược ngà” là một trong những chuyện ngắn tiêu biểu được viết năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt, điều đáng lưu ý là truyện ngắn này viết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con, tình cảm ấy được diễn ra một cách sâu sắc cảm động từ 2 nhân vật bé Thu và ông Sáu, nhưng có lẽ xúc động và gây ám ảnh hơi cả với người đọc là tình cảm người cha- ông Sáu với đứa con gái của mình.

Ông Sáu là người nông dân Nam Bộ giàu lòng yêu nước, lúc đi kháng chiến đứa con gái của ông chưa đầy  một tuổi, mãi đến khi

con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Nhưng bé Thu đã cự tuyệt tình cảm của ông chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo khác với người cha trong bức hình mà em đã biết. Đến phút chia tay ông mới đón nhận được tình cảm của con nhưng giây phút ấy quá ngắn ngủi. Vì nhiệm vụ, ông phải trở lại chiến trường, ông lên đường với lời hứa sẽ mua cho con một cây lược. Chính trong hoàn cảnh ấy tình cảm ông dành cho con thật sâu nặng và cảm động.

Trước hết tình cảm của ông Sáu dành cho con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà. Đến lúc được về ” cái tình cha con nôn nao trong lòng anh” Khát khao đốt cháy lòng ông lúc này là được gặp con và mong con gọi một tiếng ba để ông được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông từng mong đợi, vì thế mà khi xuống xuồng vào bến thấy một đứa bé chạc  bảy đến tám tuổi, đoán biết la con không chờ xuồng cập bến, ông nhún nhảy thốt lên, xô chiếc xuồng tạt ra. Anh bước vội vàng với những  bước dài rồi dừng kêu to” Thu con” tiếng gọi của ông Sáu nghe thật xúc động. Nó chứa đựng bao tình cảm yêu thương và khát khao gặp lại con. Nhưng thật chớ chêu bé Thu lại tỏ ra ngờ vực lảng tráng. Điều đó khiến ông vô cùng đau đớn, thất vọng ”nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trong thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

Đặc biệt, mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng ”ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Nó nhất định không chịu gọi ông là ”ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm hết sức, yêu con ông không lỡ mắng mà chỉ ”nhìn con khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là vui mà phản ảnh sự khổ tâm của ông ” có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được nên phải cười vậy thôi. Sự mất mát quá trong tình cảm của ông chính là bi kịch của chiến tranh, nó đã làm cho mặt ông đổi khác ”vết thẹo dài” nên con bé trông ông không còn giống trong hình với má nó. Ông vẫn không nản lòng, vẫn quan tâm tới con, nhưng ông càng quyết tâm thì nó phản ứng càng dữ dội hơn, đó là trong bữa ăn ông gắp cái trứng cá to vàng để vào chén nó, tưởng nó sẽ hiểu được thành ý nhưng ngược lại nó liền ” lấy đũa soi vào chén rồi hất cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe” lúc này ông bị con cự tuyệt hoàn toàn. Vì quá thất vọng không kịp suy nghĩ ” anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên ”sao mày cứng đầu vậy hả”. Tình yêu thương con của ông trở nên bất lực.

Đến lúc chia tay, ông cũng muốn ôm con hôn con nhưng lại sợ nó từ chối và bỏ chạy nên ông chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến và buồn rầu nhưng rồi trước những biển hiện tình cảm mãnh liệt của con, ông thực sự xúc động khi con bé cất tiếng gọi ”ba”. Không kìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên tóc con. Giọt nước mắt của ông lúc này không vì đau khổ mà nó là  ”giọt châu” rơi trong sự sung sướng hạnh phúc của một người cha yêu thương con sâu sắc.

Tình cảm yêu thương của ông Sáu được thể hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông Sáu trở lại chiến tranh. Sau khi chia tay với gia đình, ông Sáu vô cùng nhớ con. Những lúc ấy ông lại thấy dằn vặt day dứt vì đã đánh con trong lúc nóng giân, rồi lời dặn của con: ” Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe Ba”. Đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con, khi kiếm được khúc ngà voi ông đã vô cùng vui mừng sung sướng ” mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta ” hóa thành” trẻ con lại chính là lúc người ta đang hiện lên cá tư cách người cha cao quý của mình, rồi ông Sáu dồn hết tâm sức và tình yêu thương và chiếc lược ” những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố gắng như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược có khắc một chữ nhớ mà ông gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét “yêu nhớ tặng Thu con của ba” chiếc lược ngà trở thành kỉ vật thiêng liêng của ông Sáu là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc đằm thắm sâu lặng. Nó làm dịu đi lỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến nhớ thương mong đợi của người cha đến với đứa con xa cách ”cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con nhưng  như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh”. Những đêm nhớ con anh anh mang chiếc lược ngà ra ngắm ngía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu thương con được kết tinh trong cây lược ngà ấy đã khiến cho người cha – người đã trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tác ra một tác phẩm duy nhất của cuộc đời.

Nhưng rồi trong tình cảnh đau thương lại đến với ông Sáu, ông bị trúng dạn của giặc. Trong giờ phút cuối cùng không kịp chăng  chối lại điều gì, ông đưa tay lên túi, móc cây lược cho ông Ba- người bạn chiến đấu và nhìn bạn một hồi lâu, cái nhìn như một lời chăng chối ủy thác thiêng liêng là ước nguyện giữ gìn tình phụ tử muôn đời. Ông Sáu đã hi sinh nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được, tình cha con mãi thiêng liêng bất diệt.

Nhân vật ông Sáu người cha giàu tình yêu thương con đã để lại bao mến phục với độc giả, một phần nhờ cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Quang Sáng, trước hết nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện bất ngờ để bộc lộ nội tâm nhân vật ngoài ra tác giả chọn ngôi kể chuyện trong vai người bạn thân thiết của ông Sáu nên không chỉ là người chứng kiến khách quan kể lại câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm chia sẻ với nhân vật ông Sáu.

Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật ông Sáu và câu chuyện về ”chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ám ảnh day dứt trong lòng bạn đọc. Câu chuyện ấy không chỉ  nói lên tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu, đặc biệt là tình cảm ông Sáu dành cho con, mà còn gợi cho người đọc nỗi đau thương mất mát của chiến tranh gây ra bao nhiêu gia đình, con người. Từ đó, ta càng có ý thức trân trọng giữ gìn tình phụ tử cao đẹp đồng thời trân trọng cuộc sống hòa bình đang được hưởng hôm nay.

Vũ Hường tổng hợp

0