16/01/2018, 13:37

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12 Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Bài số 1 Viết về người nông dân và trận đói năm Ất Dậu 1945, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc, độc đáo. Kim Lân ...

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Bài số 1

Viết về người nông dân và trận đói năm Ất Dậu 1945, “Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc, độc đáo. Kim Lân viết truyện này ngay sau Cách mạng tháng tám; đầu những năm 60, tác giả viết lại, đổi thành“Vợ nhặt”.

“Vợ nhặt” kể chuyện anh cu Tràng nhà nghèo, ở xóm ngự cư, làm nghề kéo xe bò thuê, giữa trận đói nuôi thân còn khó, thế mà dám đèo bòng, dám cả gan nhặt vợ ! Kim Lân đã sáng tạo nên một tình huống “nhặt vợ” rất hấp dẫn, đồng thời vận dụng tinh tế ngôn gnữ người nhà quê, phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, từ bà cụ Tứ đến anh cu Tràng, vợ Tràng, nhân vật nào cũng chân thực, cảm động.

Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

1. Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của Thị tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, thị bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ”, cong cớn nói với Tràng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng “thích lắm”. Lần sau, thị  gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, hai con mắt “trũng hoáy” của thị tức thì sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị  đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, thị nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố!”. Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là thị theo về ngay, “thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”.

Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. Thị cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. Thị thật đáng thương ! Thị có khác gì người ăn mày nọ:

“Ăn mày là ai? Ăn mày là ta !Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày !”(Ca dao)

Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.

2. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con gào lên: “Anh Tràng ơi ! Chồng vợ hài”, thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ,thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái đi lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương !.

Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng: “… chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn mằn nhưng đáng quý giá biết bao ! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.

3. Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình “hiền hậu đúng mực” rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được !

Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám- hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” đã nói lên một sự thật ở đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sông ấm no hạnh phúc. Những nguời nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Bài số 2

Khi nhắc đến tác giả Kim Lân ta như nhìn thấy được những mảnh đời cơ cực, những chiến sĩ, những người nông dân,…ông chính là một nhà văn xuất chúng của nền văn xuôi hiện đại được sinh ra trong thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám. Trong đó không thể nào không nhắc đến tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt”, một câu chuyện chân thực, nó tái hiện vô cùng thành công cuộc sống ảm đạm, khủng khiếp của nạn đói Ất Dậu năm 1945 của đất nước ta. Một tác phẩm khiến ai đọc cũng phải rùng mình vì xót xa.  

Câu chuyện được mở đầu trên cái nền vô cùng tăm tối và đau thương. Kim Lân đã vẽ ra hình ảnh một nhân vật người phụ nữ- người “Vợ nhặt” nghèo đói, đầy bất hạnh nhưng lại toát lên một khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Và để sống, chị đã chấp nhận theo một người đàn ông cũng nghèo khổ về làm vợ giữa ngày đói mà không cần một cái lễ gì. Nhìn người phụ nữ, người vợ lúc đó, ta sẽ thấy một số không tròn trĩnh, không tên, không tuổi, không quê hương, không nghề nghiệp,…đang tha phương, nay đây mai đó không biết đi đến đâu. Cảnh ngộ xuất hiện một người vợ nhặt thật lạ nhưng cũng thật quen với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Kim Lân không đặt tên cho nhân vật người vợ nhặt, xuyên suốt cả tác phẩm, ông gọi cô là “thị” đây là một cách gọi phiếm định, dành cho tất cả những người phụ nữ đang trong hoàn cảnh này, một cảnh ngộ và số phận vô cùng đáng thương và tội nghiệp, họ đang bước đi từng bước nặng nhọc, chịu đựng để chống chọi với cơn đói khát. Thân xác người vợ nhặt hiện ra với thân hình gầy gò ốm yếu, ngực lép gầy, khuôn mặt lưỡi cày lúc đó xám xịt và quần áo thì rách rưới không đủ che đi tấm thân. Nhìn hình ảnh người vợ nhặt, ta như thấy rõ được nạn đói năm 45, nạn đói lịch sử cướp đi cuộc sống của biết bao người dân Việt Nam lúc bấy giờ.

“Thị” được Kim Lân xây dựng với hai luồng tính cách khác nhau. Trước khi trở thành vợ của Tràng, thị là một người phụ nữ mạnh mẽ, táo bạo trong giao tiếp và chút gì đó liều lĩnh. Lần đầu tiên, khi Tràng gặp “thị”, thì chính thị là người chủ đậu làm quen, cũng chính thị đã chủ động đẩy xe bò giúp Tràng. Lúc đó, thị vui vẻ, thị “liếc đôi mắt cười tít” với Tràng. Đến lần gặp thứ hai, bất ngờ từ đâu thị “sầm sập chạy tới” trước mặt Tràng,  miệng sưng sỉa lên nói, dáng đứng thì cong cớn. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn, khi được Tràng mời ăn bánh đúc thị đã ăn một mặt hết bốn bát bánh đúc mà không ngẩng lên bao giờ. Ăn xong, thị lấy đũa quẹt miệng, khen ngon và tỏ ra hạnh phúc. Vì đói, thị không sợ mất thể diện “đòi ăn”, một khát khao mãnh liệt được sống. Cái đói như biến con người ta thành một người khác, biến đổi tính cách con người. Kim Lân chắc chắn phải thật sự cảm thông và xót xa trước cảnh ngộ đói nghèo đó của người lao động thì mới có thể lột tả được đúng tâm trạng của “thị” như vậy. Nhưng khi trở thành vợ Tràng, “thị” như trở thành một con người hoàn toàn khác, trở lại một người đàn bà hiền thục, lễ phép, đảm đang, biết e lệ, khép nép. Dễ dàng nhận ra điều đó qua dáng vẽ tội nghiệp cứ bẽn lẽn khi thị ở bên cạnh Tràng vào lúc trời chàng vạng sáng. Hình ảnh thị đi theo sau, chiếc nón rách cứ che nghiêng, như muốn che đi sự e thẹn, ngượng nghịu, đôi chân như không nghe lời, cứ bước díu từ chân nọ đến chân kia…nhìn cảnh đấy ta thấy thật tội nghiệp cho nàng dâu mới. Không xe hoa, cũng chẳng pháp cưới, những người xung quanh với khuôn mắt u tối hốc hác, xen vào đó là âm thanh của quạ, tiếng khóc tiễn người chết đầy tang thương,…Nhưng sáng sớm hôm sau, thị đã phần nào quen với cảnh có chồng, thị dâỵ sớm quét tước dọn dẹp căn nhà đơn sơ. Hình ảnh này như gợi lên một người vợ biết lo toan, vun vén cuộc sống gia đình. Một người vợ hiền lành, một cô dâu thảo. Bữa cơm đầu tiên bước về nhà chồng, bữa cơm của ngày đói, bữa cơm chỉ có cơm độn sắn, nhưng đối với thị lại ấm ấp, thơm ngọt. Thị kể cho mẹ chồng và chồng nghe câu chuyện người dân Bắc Giang cùng nhau đi phá kho thóc Nhật, ánh mắt ánh lên niềm hi vọng, và cũng nhờ vào đó mà tiếp thêm sức mạnh cũng niềm tin vào sự đổi mới trong tương lai cho hai mẹ con Tràng.

Chính tấm lòng giàu tình nhân ái, tình yêu thương của Tràng và mẹ Tràng đã giúp cho “thị”- người phụ nữ không tên tuổi, không có gia đình, người thân sống lang thang cơ nhỡ, có một mái ấm, có một sự đổi đời. Thị chính là hiện thân cho sự ấm áp về cuộc sống gia đình, niềm tin vào cuộc sống tăm tối của người nghèo khổ đang đứng trước vực thẳm của cái đói, cái chết. Kim Lân đã rất tinh tế khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật “vợ nhặt”.

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Bài số 3

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người dân nghèo bởi họ rất gần gũi với sinh hoạt của ông. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân. Đến với truyện ngắn này, người đọc sẽ rất ấn tượng với nhân vật người vợ nhặt.  Vợ nhặt được rút ra từ tập truyện Con chó xấu xí của Kim Lân. Tác phẩm có một cái tên thật độc đáo. 

Nhan đề của truyện vừa cho ta thấy sự rẻ rúng và số phận đau thương của người phụ nữ vừa phần nào hé mở giá trị tư tưởng của tác phẩm. Tên tác phẩm cho ta hiểu vấn đề được đề cập ở đây có liên quan trực tiếp đến một nhân vật phụ nữ trong truyện. Như vậy, nhân vật người vợ nhặt nằm trong hệ thống quen thuộc có tính phổ biến trong văn học từ xưa đến nay. Đã có rất nhiều nhà thơ, nhà văn quan tâm phản ánh chân thực số phận đau khổ và kháng định phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Người “vợ nhặt” trong tác phẩm là một trong những nhân vật chính. Viết về người phụ nữ này, Kim Lân đã tìm được lối đi riêng cho mình, ông phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói khủng khiếp và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này như lòng ham muốn sống mãnh liệt, hiền hậu, đúng mực và niềm lạc quan, tin tưởng.

Trước tiên, “vợ nhặt” có một số phận bất hạnh. Văn học từ xưa đến nay rất quan tâm phản ánh chân thực nỗi bất hạnh của người phụ nữ như ca dao than thân, Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Mợ Du… Kim Lân cũng vậy, qua truyện ngắn này nhà văn cho người đọc thấy số phận bất hạnh đau thương của người phụ nữ. Nếu trước kia đẩy người phụ nữ vào số phận hẩm hiu, cực khổ là các tầng lớp thống trị đen tối, những thần quyền lễ giáo cổ hủ, đồng tiền… thì ở truyện ngắn Vợ nhặt ta thấy số phận người phụ nữ được đặt tương quan với nạn đói ghê gớm gắn liền với một sự kiện lịch sử của dân tộc. Hơn hai triệu người bị chết đói năm 1945. Số phận bất hạnh của người phụ nữ này được thể hiện qua ngoại hình, hành động, tâm lí. Vợ Tràng là một nhân vật đặc biệt: nhân vật này không có tên gọi, mà nhà văn gọi chị là “người đàn bà”, “thị” hoặc “người con dâu”. Đây là cách gọi khiến cho tính khái quát càng rộng: thời bấy giờ không chỉ có một mà có muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế.

Không ai biết gốc tích của người vợ nhặt, chỉ biết chị “ngồi vêu ra ở cửa kho. nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì thì gọi làm”.  Điều đó chứng tỏ thị không có công ăn việc làm và đang đứng trước thảm họa đói. Ngoại hình của người vợ nhặt được Kim Lân miêu tả bằng những chi tiết tỉ mỉ: “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược thời gian trở lại lần gặp thứ hai của thị với Tràng, người đọc thấy thị giống như bao kẻ đói khát. “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy xọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mất”. Với ngoại hình trông rất tiều tụy, chị là hiện thân của những con người bân cùng, đói khát, tha phương cầu thực “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Với những chi tiết miêu tả ngoại hình, Kim Lân cho người đọc thấy người phụ nữ này đã phải chịu đói nhiều ngày. Sự đói khát cùng đường làm chị mất đi những nét nữ tính.

Bên cạnh ngoại hình, số phận bất hạnh của người vợ nhặt còn được thể hiện qua tâm lí, hành động của nhân vật này khi gặp Tràng. Ở tình huống gặp gỡ với Tràng, tâm lí của chị hiện lên rất chân thực. Đó là tâm lí của người phụ nữ đang bị đói khát.

Tràng và những lời trêu ghẹo của bạn bè, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Một người đàn ông không quen biết rồi thị đùa bỡn với anh “liếc mắt cười tít”. Chuyện đùa chỉ có vậy, hình ảnh người đàn bà này không để lại dấu ấn sâu sắc gì với Tràng. Đến lần thứ hai, nhân vật xuất hiện bằng ngôn ngữ và cử chỉ được cá tính hóa rõ nét, chị sưng xỉa trách móc: “Điêu! Người thế mà điêu” làm Tràng không hiểu. Những lời thoại tiếp chứng tỏ người phụ nữ đã cố lái những chuyện không đâu vào mục đích thiết thân của mình là được ăn. Sự đói khát cùng đường đã biến chị trở thành kẻ táo tợn, trơ trẽn không cần giữ danh dự. Chị đã biến lời nói đùa thành thật. Khi được Tràng mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị lập tức sáng lên”. Đây đúng là phản xạ của một người đói, cái đói đang cào cấu ruột gan “Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật”, “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”.

Trong văn học trước đó ta đã gặp những trang viết về cảnh cơ cực khốn cùng của con người vì đói: một bà lão nông dân đói lâu ngày tìm đến ăn một bữa nhưng lại bị chết (Một bữa no), một người cha vì miếng ăn mà mất hết tình phụ tử (Trẻ con không được ăn thịt chó), một người vì đói mà ăn vụng vợ mấy miếng bánh,… Nhưng trong Vợ nhặt, cái đói đã thử thách nhân cách của người phụ nữ ghê gớm. Nạn đói như một cơn lũ khủng khiếp cuốn phăng đi bao sinh mệnh. Giữa dòng lũ đó thì tiếng nói mãnh liệt nhất là tiếng nói của bản năng, lòng mãnh liệt ham muốn, vì đói quá người phụ nữ ấy đã đẩy lùi sĩ diện không do dự ngập ngừng trong hành động của mình. Chị đã biến câu hò thành lời hứa, biên lời rủ rê vu vơ thành lời câu hồn chính thức, biến tất cả đùa thành thật. Chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy. Tất cả nhừng hảnh động này đều vì đói khát, cùng cực. Tràng đã nhặt được vợ một cách thật dễ dàng. Tình huống này khiến người đọc suy nghĩ về giá trị con người, đặc biệt là giá trị của người phụ nữ. Qua đó ta thấy, cái đói đã xô đây con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ. Cái đói đã tước đoạt nhân cách của người phụ nữ, làm cho giá trị của họ trở nên rẻ mạt. Người vợ nhặt là hiện thân cho số phận bất hạnh của người phụ nữ trong nạn đói đó.

Bị cái đói, cái khát đe dọa thủ tiêu, tha hóa nhưng trong người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ.

Ở hai lần gặp gỡ người phụ nữ đã dai dẳng bám theo câu hò và chuyện đùa trở thành thật. Khi được ăn thật chị biết đùa sau bữa ăn cho nhẹ nhàng “Hà, ngon! về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Điều đó chứng tỏ chị chấp nhận ăn để thỏa mãn nhu cầu thiết thực cho bản thân nhưng vẫn còn vương vẫn một chút sĩ diện, một chút e ngại cho cả Tràng vì giữa lúc đói kém này mà Tràng lại bị hao hụt tiền cho người khác. Chị không phải có bản tính xấu muốn lợi dụng người khác. Do vậy mà người đọc thấy thương chứ không khinh bỉ nhân vật. Kim Lân đã miêu tả nhân vật bằng những chi tiết rất tỉ mỉ và ông sử dụng những từ ngữ, những kiểu câu đối thoại của nhân vật rất phù hợp với tâm lí, trình độ của họ. Qua đó, người đọc hiểu người đàn bà này cong cớn, trơ trẽn nhưng không lẳng lơ. Sự cong cớn, trơ trẽn là sản phẩm của cái đói chứ thị không có bản tính xâu và ác. Vì thế, gặp bàn tay đón đỡ của Tràng và bà cụ Tứ, vẻ đẹp đầy nữ tính của thị đã sáng dân lên. Trên con đường về nhà Tràng, người vợ trách chồng đã bỏ ra hai hào mua dầu: “hoang nó vừa chứ”, lời trách thể hiện trách nhiệm với gia đình, ý thức thu vén cuộc sống. Chị đúng là một người vợ thực sự. Cùng Tràng trên đường về nhà “thị cắp cái thúng còn đầu hơi cúi… có vẻ rón rén, e thẹn”. Nét e thẹn đó là bản tính rất nữ tính của con người. Như vậy, qua một vài chi tiết miêu tả ta thấy tâm tính của người phụ nữ này đang dần dần trở lại.

Vẻ đẹp tâm hồn của người vợ nhặt được bộc lộ sâu sắc nhất khi chị ở nhà Tràng. Lúc về đến nhà Tràng, chứng kiến cảnh “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những núi cỏ dại”; Trong nhà “niêu bát xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất”, “cái lồng ngực lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Thị đã ý tứ che giấu không cho Tràng biết phản ứng của mình. Đó là thái độ chấp nhận, dường như chị nghĩ rằng mình không nên đòi hỏi điều gì. Khi vào đến trong nhà, chị “ngồi mớm ở mép giường” Đây là tư thế e thẹn, ngượng ngùng, rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước chân về nhà chồng. Chi tiết này chứng tỏ nhà văn rất tinh tế. Tinh tế hơn nữa khi ông diễn tả cử chỉ “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Nét mặt này chứa đựng bao ngổn ngang suy nghĩ, e ngại xót xa, tủi cực cho số phận của mình. Nhưng chị không khóc, chị đã cô giữ để những giọt nước mắt khỏi tuôn trào. Điều đó chứng tỏ thị sống rất sâu sắc. Trước đó chị liều lĩnh theo Tràng để tránh được cái đói, để được sống. Bây giờ chị biết vượt lên hoàn cảnh để thực hiện khát vọng Sống. Đặc biệt là buổi sáng hôm sau thị đã thực sự trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ khiến Tràng cũng nhận ra sự thay đổi kì lạ của thị “trông thị hôm nay khác hẳn”. Rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Cử chỉ đối với mẹ chông rất lễ phép ngoan ngoãn. Có vẻ đến đây thiên tính nữ trong con người thị được bộc lộ rõ nét “Không hẳn người phụ nữ nào trong hoàn cảnh ấy cũng cư xử được như chị ta”. Khi thị hỏi bà cụ Tứ tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu, người ta còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả Tràng. Trong bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, chị cũng như bà cụ Tứ và Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn ứ trong cổ họng. Bữa ăn đầu tiên của một nàng dâu mới đặt chân về nhà chồng như vậy quả rất đáng tủi. Nhưng mẹ chồng đã có công nấu, chị điềm nhiên và lặng lẽ ăn. Chị cũng như hai mẹ con Tràng đều cố tránh nhìn mặt nhàu, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Kim Lân như muốn khẳng định “người phụ nữ dù rơi vào hoàn cảnh nào vẫn mang thiên tính nữ. Và rất tự nhiên họ khao khát một cuộc sống gia đình và vun vén cho mái ấm ấy”. Đó là điều rất đáng trân trọng, đáng ngợi ca.

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ sô phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật người vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn. Người vợ nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô nghĩa.

Thông qua tâm lí của nhân vật người vợ nhặt diễn ra trong một tình huống đặc biệt, chủ đề của truyện ngăn được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động: người lao động trong xã hội cũ cực khổ vô cùng, suốt đời không thoát khỏi đói nghèo, tuy vậy rất giàu tình yêu thương, họ khao khát một mái ấm gia đình. Và không gì có thể cướp được ở họ niềm tin vào sức sống và tương lai. Chủ đề của tác phẩm vừa có ý nghĩa tố cáo xã hội, vừa có giá trị nhân bản sâu sắc.

Phân tích nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân – Bài số 4

Trong dòng văn học hiện thực, ta đã bắt gặp Tắt đèn – Ngô Tất Tố với hình ảnh người nông dân sưu cao thuế nặng. Chí Phèo bước vào trang sách đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu của văn học hiện thực phê phán. Cùng viết về đề tài người nông dân, Kim Lân một lần nữa tái hiện cuộc sống thời kì năm 1945. Trước bờ vực của cái chết, họ vẫn muốn sống, vẫn khao khát hạnh phúc, mái ấm gia đình, vẫn yêu thương nhau. Đó là "Vợ nhặt" – một tác phẩm vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Và nhân vật thể hiện rõ hai giá trị ấy chính là nhân vật Thị – vợ anh cu Tràng.

Thị xuất hiện trong trang văn của Kim Lân không có tên, không gia đình, quê hương, bị cái đói đẩy ra lề đường. "Mỗi bận qua cửa nhà kho là thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy". "Họ ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có công việc gì gọi đến thì làm". Với ngoại hình tố cáo rõ hiện thực cái đói và tội ác của bọn phát xít thực dân. "Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt". Thị chẳng khác gì con ma đói. Thị là nạn nhân của cái đói. Cái đói không chỉ tàn phá ngoại hình Thị mà còn cả tính cách. Cái đói ấy đã đẩy Thị trở nên chao chát, chỏng lỏn, đanh đá, liều lĩnh, mất lòng tự trọng. Khi nghe Tràng hò, "Thị cong cớn", rồi "vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng". "Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến", rồi "sưng sỉa nói". Thị lại gạ ăn: "Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu". Thế là thị "ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở". Thị chỉ tin vào câu nói nửa đùa nửa thật của Tràng, theo Tràng về làm vợ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc và những lời nói bông đùa, Thị theo không Tràng về làm vợ.

Trên đường trở về nhà Tràng, nét dịu dàng của thị được trở lại. Thị có vẻ rón rén, e thẹn, vẻ cong cớn vừa nãy biến đâu mất. "Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn". Khi"biết xung quanh người ta đang nhìn đổ cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia". Về đến nhà Tràng, thị "đảo mắt nhìn xung quanh" căn nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, "cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài". Thị thấy, Tràng cũng không hơn gì mình. Nhưng thị không chạy trốn. Thị chạy trốn cái đói để liều lĩnh về làm vợ Tràng. Nhưng lần này thị không chạy trốn. Có lẽ bởi khát khao mái ấm gia đình. Thị "ngồi mớm ở mép giường", lo âu, băn khoăn, lo lắng, hồi hộp, không biết bà cụ Tứ sẽ đối xử với mình ra sao. Nhưng khi cảm nhận được tình yêu thương của bà cụ, thị đã tự nhiên hơn được một chút.

Buổi sáng hôm sau, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Có bàn tay thị căn nhà trở nên gọn gàng sáng sủa, đầm ấm hơn. "Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong  Hai cái anh nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch". Tràng nom thị hôm nay khá lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị chính là người thắp sáng trong Tràng niềm tin vào tương lai. Bây giờ "hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải ko lắng cho vợ con sau này". "Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u xám của bà rạng rỡ hẳn lên". Không chỉ thế, nhân vật Thị còn nâng cao giá trị tác phẩm ở phần kết. Cùng viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám, nếu như Tắt đèn là hình ảnh chị Dậu chạy ra trong tăm tối, Chí Phèo khao khát được làm người giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Các tác phẩm đều kết thúc tăm tối không lối thoát của người nông dân. Nhưng với vợ nhặt thì khác. Thị đã gợi đến chuyện người Bắc Giang không còn phải đóng thuế nữa. Kết thúc tác phẩm là lá cờ đỏ sao vàng.

Thị là nhân vật tô đậm giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Là nạn nhân của cái đói, nhưng bên bờ vực của cái chết vẫn khát khao sống, khát khao có một mái ấm gia đình.

Vũ Hường tổng hợp

0