16/01/2018, 13:37

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12 Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 1 "Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ...

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Văn mẫu lớp 12

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 1

"Vợ nhặt" là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của Kim Lân. Truyện kể về chuyện anh cu Tràng nhà nghèo ở xóm ngụ cư đã nhặt được vợ khi trận đói đang diễn ra kinh khủng, người chết đói đầy đường. Truyện ngắn đã phản ảnh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cũ, cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.

Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào viết về trận đói năm Ất Dậu – 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân. Cảm hứng nhân đạo dào dạt từ đầu truyện đến cuối truyện.

Truyện "Vợ nhặt" đã phản ánh nỗi đau khổ tột cùng của nhân dân ta, của người nghèo trong trận đói năm Ất Dậu. Đoàn người từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau lên "xanh xám như những bóng ma" nằm ngổn ngang khắp các lều chợ. Quạ đen đậu trên nhừng ngọn cây bay vù lên "như những đám mây đen" trên nền trời. Mùi gây của xác người vẩn lên khắp xóm chợ. Người chết đói như ngả rạ. Sáng nào cùng ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường!

Đói và chết đói đâu chỉ riêng ai! Mẹ con Tràng, cái nhà "vắng teo đứng rúm ró" trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Của nhà là một tấm phên rách. Niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Cơ ngơi ấy đã làm cho nàng dâu mới thất vọng tiếng thở dài". Bà cụ Tứ "mặt bủng beo u ám". Anh cu Tràng "bước mệt mỏi", cái đầu "trọc nhẵn chúi về đằng trước" với bao lo lắng chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng nó "ngồi ủ rủ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích". Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái "ngồi vêu ra". Đặc biệt nhân vật "thị", cái đói đã cướp đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần "tả tơi như tổ đỉa". Thị "gầy sọp hẳn đi", khuôn mặt lưỡi cày "xám xịt", chỉ còn thấy hai con mắt. Con đường phía trước của thị là vực thẳm, là chết đói. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả. Chị nghe Tràng nói "muốn ăn gì thì ăn", thấy anh ta vỗ vỗ vào túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì "sáng lên". Tình tiết thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trông có vẻ thô lỗ, nhưng không đáng chê, trái lại rất đáng thương. Thị đang đói, thị đã nhịn đói nhiều ngày, thị cần được ăn, thị cần được sống. Kim Lân rất nhân hậu khi nói về thị, khi nói về sự đói khát của người nghèo.

Cái xóm ngụ cư càng về chiều "càng xơ xác, heo hút" nhà cửa "úp súp, tối om", những khuôn mặt "hốc hác u tối". Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể "nhặt" được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có "quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau". Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới "khép nép", "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Tối tân hôn, "tiếng khóc tỉ tê" của những gia đình có người mới chết đói vọng đến thô thiết não nùng. Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi "dồn dập, vội vã". Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình, Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân, về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp bắt nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Truyện "Vợ nhặt" đã biểu lộ một tấm lòng trân trọng đối với hạnh phúc của con người. Cách kể của Kim Lân rất hóm hỉnh về tình huống anh cu Tràng nhặt vợ và những tình tiết xoay quanh nàng dâu mới. Chỉ một vài câu "tầm phơ tầm phào", Tràng đãi thị 4 bát bánh đúc thế mà hắn nhặt được vợ! Nhặt được vợ nhưng hắn cũng phải liều: "Chặc, kệ!". Hắn nghĩ thóc gạo này nuôi thân còn khó, lại còn "đèo bòng". Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Tràng "phởn phơ khác thường". Hắn "tủm tỉm cười nụ". Hai mắt "sáng lên lấp lánh". Có lúc cái mặt hắn "cứ vênh lên tự đắc với mình".

Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông "hay đáo để". Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị "phát đánh đét" vào lưng với câu mắng yêu: "Khỉ gió". Tràng nghển cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con, bị thị mắng: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.

Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm, bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình, bà nhận nàng dâu mới: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng". Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…". Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là "con". Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: "Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…". Qua đó, ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai hoạ, họ đã dựa vào nhau, san sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách, hướng tới ngày mai với niềm tin và hi vọng: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…". Người đọc cảm thấy ngọn đèn "vàng đục" chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng là ngọn đèn hi vọng và hạnh phúc ấm no.

Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện "Vợ nhặt". Bà cụ Tứ gọi là "chè khoán… ngon đáo để". Bà tự hào nói với hai con là " xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cảnh gia đình mẹ con vô cùng "đầm ấm hòa hợp" hạnh phúc. Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thổ có những bữa cơm nhiểu thịt cá ngon lành hơn, nhưng họ khồng bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo cám "đắng chát" mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lí, tình cảm của họ. Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cha, cảm nhận được cái hương đời, cái tình thương của lòng mẹ,… mà không một thứ cao lương mĩ vị nào có thể sánh tày?

Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đổi đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ con tinh nghịch reo lên: "Chông vợ hài". Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm chợ cảm thấy "có một cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ". Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm, tươi tỉnh "rạng rỡ hẳn lên". Vợ Tràng trở thành người đàn bà "hiền hậu đúng mực". Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy "êm ái lửng lơ". Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn "vẫn ngỡ ngàng như không phải".

Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang nước được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống, về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thây hắn đã "nên người", hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!

Một chi tiết rất hay là vợ Tràng sau khi nghe tiếng trống thúc thuế đã báo tin ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không nộp thuế, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Còn anh cu Tràng thấy trong óc mình "lá cờ đỏ bay phấp phới". Cách mạng sắp đến. Nạn đói sẽ bị đẩy lùi. Hình ảnh lá cờ đỏ cuối truyện không chỉ tô đậm giá trị nhân đạo mà còn tạo nên âm hưởng lạc quan đầy chấn động, như một dự cảm về ngày mai ấm no, hạnh phúc.

Hạnh phúc của Tràng và niềm vui của mẹ già tuy muộn mằn nhưng đáng quý và đáng trân trọng biết bao! cổ kim đống tây đã có ai nhặt được vợ? Cái đói do bọn Nhật, Pháp gây ra đã cướp đi tất cả tính mạng và phẩm giá con người. Một sự thật được khẳng định: niềm khao khát tình yêu và hạnh phúc, khao khát sống mạnh hơn cái chết. Cái vị đời ngọt ngào và tình người ấm áp đã tỏa sáng giá trị nhân đạo truyện "Vợ nhặt" mà ta trân trọng.

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 2

Văn học bất cứ thời đại nào cũng muốn tồn tại và đứng vững trước thử thách khắc nghiệt của thời gian, thì đều phải bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cho cuộc sống. Văn học nước ta thời kì 1930 – 1945 còn để lại nhiều giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mà lớp lớp các nhà văn tạo nên chất liệu cuộc sống đầy biến động. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là một tác phẩm trong giai đoạn văn học ấy mang giá trị nhân đạo sâu sắc từ bối cảnh của một nỗi đau dân tộc – nạn dói khủng khiếp năm Ất Dậu. Giá trị nhân đạo ấy qua ngòi bút tài hoa, kĩ lưỡng cả đầy tâm huyết của nhà văn Kim Lân được hiện ra thật xúc động và sâu sắc.

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn thể hiện trong tác phẩm của mình không chỉ toát lên từ sự cảm thông của nhà văn với nỗi đau khổ của những con người trong cơn khốn khổ mà còn hiện ra ở tấm lòng, phát hiện những khát khao cao đẹp, những tình cảm đáng quý giữa con người với con người.

Thực ra khi viết hoàn chỉnh truyện ngắn “Vợ nhặt”, thì Kim Lân đã trải qua nạn đói một thời gian. Tác phẩm được viết ra từ sự rút gọn tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” và hơn thế còn được nhà văn sửa chữa kĩ lưỡng. Bởi thế đó là tác phẩm được chọn lọc từ sự chiêm nghiệm của bản thân, sự nghiền ngẫm suy nghĩ trong một quá trình. Do vậy, giá trị của tác phẩm càng được nâng cao bởi những gì sâu sắc mà nó chứa đựng.

Truyện được viết trong bối cảnh là một thảm họa của dân tộc. Với tư cách là một con người đã từng trải qua nỗi đau ấy, Kim Lân đã làm hiện lên nỗi đau của bao kiếp người khổn khổ khác bằng sự cảm thông sâu sắc. Dựng lên một bối cảnh rất thực, thực đến phũ phàng bằng những nét vẽ ghê rợn, Kim Lân đã ghi ấn tượng sâu sắc trong người đọc nhiều thế hệ tiếp theo. Không khí của nạn đói bao trùm khắp nơi từ con đường dẫn vào xóm chợ khẳng khiu vô hồn và cũng dường như kiệt sức vì đói, rồi mùi vẩn lên trong không khí là mùi gây của rác ẩm và xác người, mùi đốt đống rấm của những nhà có người chết. Âm thanh rùng rợn bao trùm cả thiên truyện là tiếng tỉ tê hờ khóc thật ảm đạm và thật ghê rợn. Tác giả đã đẩy cái ghê rợn ấy lên tới tột cùng khi mà để cho những hình ảnh về người sống nằm sát ngay hình ảnh về những cái thây nằm còng queo ngoài lều chợ, hai bên đường. Dường như ở nơi đây tử khí đang lan tràn khắp nơi, ranh rới giữa cái chết và sự sống thật mong manh. Sự sống luôn mấp mé bên bờ cái chết. Bởi thế, tác giả đã hai lần ví người sống mà lại “xanh xám như những bóng ma”.

Bối cảnh năm đói được Kim Lân làm hiện ra với tất cả cái ghê rợn tột cùng của nó. Những bối cảnh ấy lại được dựng lên bằng một ngòi bút tài năng không chỉ là một bản cáo trạng về tội ác của xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, mà còn là nơi để tác giả gửi gắm bao cảm thông với số phận con người. Và hơn hết, điều này thực sự quan trọng, đó chính là từ bối cảnh nghiệt ngã ấy, tác giả đã phát hiện và viết nên bài ca không ngã lòng của những con người tưởng chừng như đều tuyệt vọng.

Điều đặc sắc nhất trong nghệ thuật viết truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân chính là tình huống truyện đặc sắc. Tình huống truyện thể hiện trước tiên ở cách đặt nhan đề của tác phẩm “nhặt”, theo như chính Kim Lân giải thích đó là một hành động nhặt nhạnh, vu vơ một cái gì ít giá trị. Đối tượng của hành động nhặt thường là một đồ vật. Vậy mà “Vợ” lại được đặt vào vị trí một đồ vật ít giá trị đó. Tạo nên cái mâu thuẫn đó, tác giải đã thể hiện nỗi xót thương cho cái giá trị con người. Chỉ trong một bối cảnh đen tối dường kia thì con người mới trở nên mỏng manh và đáng thương như vậy. từ nhan đề của tác phẩm, ta không hề nhận thấy một sự mỉa mai hài hước nào của tác giả mà lại toát lên ở đó một nỗi niềm thương xót cho kiếp phận con người trong nạn đói, sự trớ trêu của số phận. Chính là “Vợ nhặt” không phải là “Nhặt vợ” nên mới càng xót xa. “ Nhặt vợ” chỉ là một hành động nhất thời, còn “Vợ nhặt” thì lại trở thành một loại vợ chỉ tồn tại trong cái hoàn cảnh khốn cùng ấy.

Tình huống truyện còn thể hiện qua việc nhặt vợ kia trong một bối cảnh xót xa thê thảm. Thường thì người ta lấy vợ lấy chồng trong gia cảnh khá giả. Người xưa có câu:

“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay”

Vậy mà ở đây, Tràng – nhân vật của truyện đã lấy vợ vào cái bối cảnh khổ đau và thê thảm. Việc lấy vợ này cũng đâu có giống lẽ thường, không phải là lấy vợ mà nhặt vợ. Nhưng dựng lên tình huống nhặt vợ như vậy, Kim Lân đã thể hiện được biết bao điều cao đẹp trong tấm lòng của ông dành cho con người.

Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân đã giúp biến những việc nhìn bề ngoài tưởng chỉ là xót xa, trớ trêu thành khát khao cao đẹp của những con người đau khổ.

Tràng – một nhân vật vừa xấu trai, lại nghèo hèn, việc làm bấp bênh, có chút không bình thường. Cái dáng ngật ngưỡng ngay từ đầu tác phẩm đã toát lên tất cả sự đáng thương của con người. Với con người tưởng chừng việc kiếm tìm hạnh phúc chỉ là vô vọng thì Kim Lân đã dựng lên tình huống nhặt vợ rất đúng nghĩa của từ ấy đối với Tràng. Bởi lẽ nó rất dễ dàng, buông ra vài từ vu vơ, và đãi một người đàn bà bốn bát bánh đúc, sau một tiếng “chậc” đầy liều lĩnh, Tràng đã có vợ, y như một anh chàng tốt số đào hoa. Nhưng thực ra sâu xa hơn, Kim Lân đã nói lên cái số kiếp nhỏ bé của một con người như Tràng, vì chỉ có cái hoàn cảnh khốn cùng, Tràng mới lấy được vợ, mới có vợ. Đối tượng của động từ “ nhặt” kia lại là một phụ nữ nghèo khổ. Cả một con số không to tướng bao trùm lên chị: không gia đình, không tên tuổi, không tiền, không sắc. Người đàn bà gày gò xấu xí ấy lại còn “chao chát” “chỏng lỏn”. Chịu theo không về làm vợ người đàn ông xa lạ, điều ấy làm sao có thể giải thích? Đó trước tiên chỉ có thể là sự chạy trốn cái đói, nhưng sâu xa hơn, Kim Lân đã phát hiện khát khao rất người, rất cao đẹp ở hai con người ấy. Đó là hi vọng, khát khao có một cuộc sống gia đình. Người phụ nữ ấy dù có đanh đá, chao chát, chỏng lỏn đi chăng nữa, hoàn toàn không phải vì xấu xa, mà chỉ vì đói. Tấm lòng nhân đạo cao cả của Kim Lâm đã phát hiện ra điều này để vượt qua sự khinh bỉ đến bến bờ của cảm thông và yêu thương.

Hai con người đến với nhau bởi khát khao hạnh phúc gia đình. Đó là một khát khao đáng được trân trọng.

Cuộc hôn nhân này được nhìn một cách khá toàn diện từ đôi mắt từng trải và nhân hậu của bà cụ Tứ – mẹ Tràng. Sau bao nỗi niềm buồn vui lẫn lộn, lo lắng cho các con trong cơn bĩ cực thì tất cả còn lại là quan niệm “người sống hơn đống của” của dân tộc Việt Nam. Bà đã nhen lên niềm hi vọng cho con cháu bằng nỗi lòng bao dung.

Những con người đó đã đến với nhau để làm nên một gia đình. Khát khao sống trong tình thương luôn là khát khao bất diệt của con người tạo cho con người sức mạnh để bước qua ranh giới đói khát và cái chết. Thực sự là trên đời này đã không có con đường cùng.

Trong buổi sáng, sau hôn lễ đặc biệt ấy một khung cảnh rạng rỡ đến với mỗi con người, dù xung quanh còn rập rờn bóng dáng của cái chết. Điều quan trọng hơn là sự thay đổi trong tâm hồn của mỗi con người. Họ đã được sống đúng là một con người.

Kim Lân đã phát hiện ra khao khát của những con người cùng khốn, trân trọng và làm cho nó trở nên thiêng liêng. Hình ảnh một gia đình, tuy vẫn phải chịu cái đắng chát của miếng cám, nhưng bù lại là hình ảnh của lá cờ sao vàng đã kịp gieo mầm hi vọng cho những cảnh đời khốn cùng kia.

“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Cả cái tài và cái tâm đã làm nên một tác phẩm có giá trị của Kim Lân.

Nhà văn Nga Nicolai trong “Thép đã tôi thế đấy” đã viết: “Hãy biết sống cả khi cuộc đời đã trở nên không thể sống được nữa”.  Tấm lòng nhân đạo của Kim Lân đã cảm thông và trân trọng những khát khao sống cháy bỏng của con người để thắp lên ngọn nến của tình yêu thương giữa bóng tối bao trùm của số phận và cuộc sống khắc nghiệt. Tình cảm nhân đạo lớn lao của nhà văn đã làm nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Chính nhờ giá trị nhân đạo này mà tác phẩm sẽ còn trường tồn cùng sự nghiệp văn học nước nhà.

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 3

“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của nhà văn học Việt Nam sau năm 1974. Truyện vợ nhặt có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Thông qua tình huống “nhặt vợ” tác giả đã cho chúng ta thấy được nhiều điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói 1945 cũng như về khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về nhân phẩm rất cao ở họ.

Trước hết, tác phẩm đã bộc lộ được niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói 1945. Qua đó, tố cáo về tội ác tày trời của thực dân pháp và phát xít Nhật đã gây nên nạn đói. Trong bối cảnh chính của truyện “vợ nhặt” diễn ra trong một xóm ngục ơ, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói như thấm vào cái nhìn của cảnh vật. Con đường từ trong xóm chợ vào bên trong bến thì “khẳng khiu”, cái thứ ánh sáng đầu tiên hắt vào truyện là thứ ánh sáng nhập nhoạng mù mờ, không ra ánh sáng mà cũng không ra tối hẳn của buổi chiều tà “chạng vạng” rồi hiện lên vật vờ ủ rủ những bóng người đói “xanh xám như những bóng ma”. Người sống hì nằm ngổn ngang ở lều thợ , trên ngọn cât thì hình ảnh bầy quạ kêu thảm thiết. văng vẳng bên tai là tiếng trống thúc thuế dồn dập, những đứa trẻ thì ngồi ở xó đường, không buồn nhúc nhích…một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết với cái không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”.

Tiếp đó, tác phẩm đi sâu khám phá, trâng trọng cùng nâng niu về khát vọng hạnh phúc của con người, khát vọng sống, trước hết đó là Tràng. Khi nhặt được vợ về, Tràng không biết biết “chợn”, “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bong”. Nhưng rồi anh ta “tặc lưỡi”: “Chậc, Kệ!”.

Tiếp đó là ý thức cố bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở người vợ nhặt. Thị đã chấp nhận bỏ qua ý thức danh dự để theo Tràng về nhà. NHư vậy , hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người bỏ qua cả cái danh dự để tồn tại còn mặt khác thì nó làm bộc lộ lòng ham sống tới manh liệt của những ncon người ở dưới đáy xã hội như thị.

Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới và bà cụ Tứ cũng không ngoại lệ. khi cái tuổi gần đất xa trời bà lại là người thường nói tới hy vọng về ngày mai nhiều hơn tất cả : từ việc đan cái phên ngăn chỗ ở vợ chồng cho kín đáo rồi “ có tiền mua lấy đôi gà “… “Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng” hình như ai nấy đều nghĩ rằng “thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Qua tác phẩm này còn cho chúng ta thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật , và đã được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.

Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người. Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp bên trong lại luôn tiềm ẩn, đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo. Qua việc Tràng đãi Thị bốn cát bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị môt cái thúng con, đó chính là hành động rất bình thường nhưng nó lại thể hiện tình nghĩa và thái độ mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất đỗi bình thường nhưng ở thời điểm đó nó thể hiện được tình nghĩa và cả thái độ trách nhiệm của Tràng.

Còn nói về người vợ Nhặt, lúc này đã có sự biến đổi về tính cách , trước khi về làm vợ Tràng, thi hiện lên với vẻ chao chát, chỏng lỏng. Trước câu hò của Tràng thì thị cong cớn nói “Điêu! Người thế mà điêu”… nhưng từ khi bắt đầu bước về làm vợ thì “ Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa…” còn về phần bà cụ Tứ thì bà luôn hết mực yêu thương cảm thông cho tình cảm của nàng dâu mới “có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ”, bà ân cần từ cách hành động với con dâu “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì”, trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy luôn sống vì con vì cái và tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình trong hạnh phúc của con.

Nổi bật nhất trong giá trị nhân đạo của tác phâm đó là về niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống , khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều các tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng.

Phân tích giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 4

Nạn đói khủng khiếp năm 1945 là một đề tài được nhiều tác giả, nhiều nhà văn quan tâm. Viết về một thời kì mà theo nhà văn Nam Cao là “có lẽ đến năm 2000 con cháu chúng ta phải kể cho cháu nghe để rùng mình”. Ở  thời kì ấy, các nhà văn đã hướng ngòi bút của mình theo nhiều khía cạnh : người thì trực tiếp miêu tả lại hiện thực, người lại miêu tả lại đời sống tinh thần của nhân dân ta thời kì gian khổ đó. Nhà văn Kim Lân cũng đã mượn đề tài nạn đói này để viết lên truyện ngắn “ Vợ Nhặt”. Tác phẩm được đánh giá là “ tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc”.

Nhà văn Kim Lân là một cây bút nổi tiếng trong nền văn học nước nhà. Nhắc đến ông, người ta nhắc đến một nhà văn của đất quê, một nhà văn “ một lòng đi về với đất, với những hồn hậu chất phác nguyên thủy của đời sống nông thôn”. Có lẽ tại yêu thương mảnh đất quê hương, gắn bó với nhân dân, với nông thôn nên Kim Lân đã viết lên “ Vợ Nhặt” với tất cả tấm lòng nhân đạo yêu thương của mình.

“Vợ Nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của nạn đói năm 1945, tiền nhân của tác phẩm chính là truyện “Xóm ngụ cư”. Đến năm 1962 tác phẩm chính thức ra đời  với tên gọi “Vợ Nhặt” và được in trong tập truyện ngắn mang tên “Con chó xấu xí”. Tác phẩm đã đi sâu vào trong lòng người đọc bởi nó mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Giá trị nhân đạo là một yếu tố không thể thiếu trong sự thành công của tác phẩm, muốn tác phẩm thành công thì tác phẩm ấy phải mang giá trị nhân đạo và muốn có được giá trị nhân đạo nhà văn phải có một tấm lòng nhân đạo. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được biểu hiện ở việc nhà văn hướng ngòi bút  vào việc tố cáo xã hội xấu xa bóp nghẹt và hủy diệt quyền sống của con người. Mặt khác, đó là việc nhà văn lên tiếng bênh vực, bảo vệ con người. Và giá trị nhân đạo của tác phẩm còn là việc nhà văn trân trọng, nâng niu giá trị con người và biểu hiện cuối cùng là việc nhà văn đã mở ra một tương lai tươi sáng  hơn cho cuộc sống của họ. Ngay trong “Vợ nhặt” Kim Lân đã làm được tất cả những điều đó. Chính vì vậy, mà sự thành công của tác phẩm là điều dễ hiểu.

Hiện thực được tác giả phơi bày lấy bối cảnh chung là nạn đói năm 1945 đã giết chết hơn 2 triệu đồng bào ta. Nhưng không gian hẹp hơn được tác giả miêu tả là không gian xóm ngụ cư nghèo trong những ngày đói kém…Không gian ấy hiện lên trong lúc chạng vạng tối với những dãy phố heo hút, xác xơ trong gió, không nhà nào có ánh điện… một không gian hoàn toàn tăm tối thiếu sức sống. Trong không gian ấy, âm thanh người ta có thể nghe thấy chỉ là âm thanh của những con quạ kêu lên từng hồi thê thiết ngoài bãi chợ, là tiếng khóc tỉ tê vẳng lại từ đâu đó. Âm thanh ấy chỉ càng làm cho xóm chợ trở nên càng heo hút , tăm tối, bóng dáng của cái chết như đã dật dờ, ẩn hiện…Và bầu không khí được nhà văn miêu tả cũng là bầu không khí ngột ngạt, không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi gây của xác người chết. Trong bức tranh ấy hình ảnh con người hiện lên cũng thật tội nghiệp đáng thương. Họ là ai…? Là những đứa trẻ mặt buồn rười rượi ngồi trong xó cửa, là những khuôn mặt u tối của những người dân trên đường Tràng về nhà, và đó cũng là hình ảnh anh Tràng những buổi chiều chạng vạng khi đi làm về “Tràng bước nhũng bước mệt mỏi, cái đầu trọc cúi về phía trước, cái áo nâu tàng vắt trên vai, dường như những gánh nặng vật chất đang đè nặng lên đôi vai rộng như lưng gấu của hắn”. Đến lúc này con người hiện lên vẫn là những con người có sự sống, nhưng sự sống của họ cũng đang độ heo úa, sự sống ấy cũng đang bị đe dọa. Họ sống như những bóng ma (“ đi lại dật dờ như những bóng ma”). Trong không gian. Trong âm thanh, trong hình ảnh con người cái chết, cái đói như đang ngự trị. Nhà văn đã miêu tả hình ảnh xóm chợ thật xót xa, đau thương. Hình ảnh người chết được miêu tả mang một sức ám ảnh rất lớn  “không sáng nào những người đi chợ không bắt gặp vài ba cái xác nằm cong queo giữa đường”. Bằng cách sử dụng từ phủ định “ không “ ở ngay đầu câu văn, Kim Lân đã phơi bày một hiện thực vô cùng đau xót, cái chết đã hiện hình một cách rỗ nét và phổ biến, không thể tránh khỏi.

Hoàn cảnh ngày đói được tác giả miêu tả rõ qua số phận nhân vật Tràng và ở hình ảnh người đàn bà vợ nhặt.

Anh cu Tràng là dân xóm ngụ cư, nơi mà chỉ có những người ngoại tỉnh phiêu bạt đến, vì miếng cơm manh áo mà phải sống “tha hương” xa rời quê hương bản quán. Anh Tràng lại chỉ là một người kéo xe bò, nhà nghèo, mẹ già, tính lại đần đù. Khi miêu tả cuộc sống anh Tràng, nhà văn đã miêu tả bằng tất cả sự cảm thông của mình. Cái đói, cái nghèo đã tước đi của anh cu Tràng cả quyền được có gia đình, được sống hạnh phúc, bởi nghèo chẳng đủ tiền lấy vợ. Ngay trong tác phẩm, Kim Lân đã để bà cụ Tứ nói lên  sự thật đau lòng này “có đến nước này người ta mơi lấy con mình mà con mình mới lấy được vợ “. Đúng trong hoàn cảnh đói khát ấy, nhu cầu đặt ra duy nhất là lương thực, là giải thoát khỏi cái đói, anh cu Tràng và cả bà cụ Tứ nữa dù rất muốn Tràng lấy vợ, có được hạn phúc nhưng trước hoàn cảnh thực tế họ buộc phải quên đi để lo miếng cơm manh áo cho cuộc đời mình. Cuộc đời anh Tràng đã bị cái đói, cái khổ làm cho anh Tràng phải quên đi nhu cầu hạnh phúc của mình, nhưng khi miêu tả cuộc đời người đàn bà vợ nhặt ta mới thấy hết được sự hủy hoại mạnh mẽ cuộc sống của con người, mới thấy hết được sự khắc nghiệt của cuộc sống đói khổ. Người đàn bà vợ nhặt trong tác phẩm là người đàn bà không tên hay không có nổi một cái tên, suốt tác phẩm nhà văn chỉ gọi chị ta bằng “chị” , bằng “thị” nhưng cũng không một dòng tên tuổi. Dường như ở đây nhà văn đã bộc lộ một thái độ chua xót đến cực độ, cái đói cái nghèo đã làm cho con người ta trở nên rẻ rúng. Để miêu  tả sự rẻ rúng của số phận con người , Kim Lân đã miêu tả qua việc anh Tràng nhặt được vợ. Người đàn ông vốn tưởng như suốt đời không thể lấy được vợ đã có vợ mà lại có vợ một cách hết sức “oanh liệt”, là “nhặt vợ”. Câu chuyện tưởng như đùa nhưng lại hết sức chua chát ,đau xót. Người đàn bà vợ nhặt sẵn sàng theo không anh Tràng về làm vợ chỉ sau hai lần gặp. Kim Lân miêu tả thị ở chợ là một người đàn bà có cách đối đáp chỏng lỏn, ngoa ngoắt “ Điêu, người thế mà điêu” cách ăn uống thô tục, thiếu văn minh, thậm chí là vô ý  rồi lấy đũa quệt ngang miệng và nói : “Hà , ngon …” . So với những phẩm chất thông thường của người phụ nữ , thì thị là một người đàn bà vô duyên hết chỗ nói . Song thật đáng thương đó chỉ là người đàn bà trong thời điểm ngày đói , là sản phẩm của nạn đói.

Sự thật đã được tác giả phơi bày ở đây chính là bức tranh ngày đói đã hủy hoại con người , làm mất đi tất cả những giá trị tối thiểu của cuộc sông thường ngày của con người đó là nhu cầu hạnh phúc, là đạo đức,nhân cách của con người. Sự thật về nạn đối ấy còn được miêu tả qua “bữa cơm ngày đói với một nồi cháo lõng bõng , một ít hoa chuối thái rối, một dúm muối một nồi chè khoán mà thực chất là một nồi chè cám, ăn vào chát xít và nghẹn bứ ở cổ”… Bữa cơm ngày cưới mừng cô dâu chú rể ấy khiến người đọc nghẹn ngào xúc động , rơm rớm nước mắt. Đến đây người đọc nhận thấy sự khắc nghiệt đến tột độ của cuộc sống đói khát.

Nhưng nếu như Kim Lân chỉ dừng lại ở việc miêu tả, tái hiện lại sự thật về đời sống bóp nghẹt mọi quyền sống của con người thì giá trị con người vẫn chỉ dừng lại ở tất cả những gì tầm thường và nhỏ bé ấy. Song chính trong hoàn cảnh cái đói cái khổ ấy, nhà văn đã tìm ra phần tươi đẹp bên trong những số phận nhỏ bé kia. Khi nạn đói đang hoành hành và nhu cầu lớn nhất của con người là miếng ăn, thì Kim Lân vẫn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn con người.. Tràng, một thanh niên nghèo khó ấy đã dang tay đón người đàn bà đau khổ về làm vợ. Lúc đầu không phải Tràng không lo sợ, ai chẳng sợ trong khi “mình còn chẳng nuôi nổi mình nữa lại còn đèo bòng”. Nhưng xuất phát từ tình thương, từ khát khao hạnh phúc, Tràng đã chặc lưỡi “chậc, kệ”. Thực chất đó không phải là sự chặc lưỡi làm liều mà nó xuất phát từ chính con người Tràng. Hóa ra không phải trong cái đói, người ta chỉ có nhu cầu ăn, mà người ta còn có nhu cầu được hưởng hạnh phúc và vì thế Tràng đã có vợ.

Chuyện Tràng có vợ là một điều vô cùng bất ngờ, bất ngờ với Tràng, với mẹ Tràng và cả với những người dân xóm ngụ cư. Việc Tràng lấy vợ đã đem tới cuộc sống của mọi người những biến đổi lạ. Nếu như ở phần sự thật đau lòng trước khi Tràng lấy vợ là một người đàn bà “chao chát”, “chỏng lỏn”, xấu xí thì ngay sau sự kiện “nhặt vợ” của Tràng, Kim Lân đã nhìn thấy bản chất tốt đẹp trong người đàn bà ấy. Thị cũng là một người đàn bà, cũng ý tứ phết đấy chứ. Thị bước đi sau Tràng vài bước, cái nón nghiêng che khuất nửa mặt, lúc vào nhà thì ngồi ở mép giường, nói chuyện với mẹ Tràng ngoan ngoãn từ tốn. Hóa ra cái “chao chát”, “chỏng lỏn” trước kia chỉ là một sản phẩm nhất thời, còn về bản chất thì thị là một người đàn bà tốt. Không tốt, không đáng trân trọng sao được, khi người đàn bà cố nén cái thở dài lúc nhìn căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng. Người đàn bà ấy theo Tràng về làm vợ với mong muốn được ăn no hơn, sung sướng hơn, nhưng khi về đến nhà chồng, đối diện với cái nghèo khó, thị cũng chẳng bỏ đi trong khi thị hoàn toàn có thể làm thế. Sở dĩ như vậy là vì thị dám chấp nhận hoàn cảnh, vả lại lúc này với thị cái cần chính là một mái ấm. Kim Lân dường như đã dành cho thị một sự ưu ái đặc biệt như phần bù đắp cho những đau khổ kéo dài trong cuộc đời người đàn bà ấy. Việc miêu tả hình ảnh người đàn bà vợ nhặt buổi sáng hôm sau đã hoàn toàn chứng minh thị là một người phụ nữ đảm đang thật sự, chính điều này Tràng cũng nhận ra, thị dậy sớm quét tước nhà cửa gọn gàng, chuẩn bị cơm, nước tinh tươm. Đọc đến đây người đọc mới cảm nhận được hết sự yêu thương trân trọng của nhà văn đối với nhân vật của mình.

Để thể hiện mục đích bênh vực con người, tác giả còn miêu tả thông qua những suy nghĩ, cử chỉ của bà cụ Tứ. Theo lẽ thông thường, theo phép tắc đạo cũ của xã hội không mấy bà mẹ chồng nào lại có thể chấp nhận một người con dâu như người đàn bà vợ nhặt, nhưng bà cũng “mừng lòng” đón con dâu. Đó là biểu hiện của sự thương con, thương dâu.

Người đọc hoàn toàn có thể cảm thấy có một luồng sinh khí ấm áp, hạnh phúc đang thổi vào tâm hồn con người, trong cái đói, cái  khó giá trị con người vẫn không hề bị mất đi, bị xóa nhòa mà chỉ bị che lấp, khi có điều kiện nó lại bừng sáng.

Trong “Vợ nhặt” Kim Lân cũng đã xuất phát từ tình thương yêu, trân trọng con người mà đã mở ra cho họ một tương lai tươi sáng chủ yếu thông qua sự động viên an ủi của bà cụ Tứ. Bà luôn động viên an ủi các con để các con yên tâm “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, may ra thì trời cho đời con cháu chúng mày…”. Lời nói của bà cụ Tứ chính là niềm hi vọng của các nhân vật trong tác phẩm, họ hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn cho cuộc đời họ và cuộc đời con cháu họ. Mọi hi vọng vẫn chưa phải đã bị dập tắt.

Ở cuối tác phẩm, Kim Lân đã miêu tả trong đầu Tràng đang hiện lên cảnh đám người đói và lá cờ của Việt Minh. Chi tiết này là một chi tiết mở cho một kết thúc của tác phẩm. Dường như nó sẽ dẫn đến việc Tràng cùng đoàn người đói kia phá kho thóc, hứa hẹn một cuộc sống mới cho gia đình Tràng, một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Có chi tiết này khiến “Vợ nhặt” không còn là một tác phẩm mang tính hiện thực nhân đạo, mà nó còn mang cả tính cách mạng.

Sự thành công của “Vợ nhặt” chính là kết quả của một cây viết tài năng, một cây bút nồng nàn với đời, biết yêu thương con người và trân trọng giá trị con người. Với sự thành công của tác phẩm, một lần nữa giá trị nhân đạo được tiếp tục đề cao trong mỗi tác phẩm và cái “Tâm” của người viết càng khẳng định được giá trị của mình.

Vũ Hường tổng hợp

Từ khóa tìm kiếm

  • Phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện hài đứa trẻ
0