25/05/2017, 00:50

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT Đống Đa Hà Nội Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm ...

Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT Đống Đa Hà Nội Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm : "Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có ...

 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT Đống Đa Hà Nội

Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm : "Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn" thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc : "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của vãn học ta hiện nay".

Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 dến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một "mặt trận"tư tưởng. Yêu cầu dó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử – sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu dể định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn – chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc : Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí : "Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài". Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn : "sự kiện lấn át con người", ông cả quyết rằng sẽ đến lúc vãn học "phải viết về con người", "trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống".

Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiên để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi "văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người", còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người". Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau nầrn 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.

Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8 – 1983) in trong tập Bến quê.

Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cá cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị – xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là : tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.

Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đé cao.Với Nguyễn Minh Châu, "Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa". Tình huống chính là "thứ nước rửa ánh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn".

Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống tự nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện : Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng : "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin : một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí cúa vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ "vỡ ra" được nhận thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,…).

Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyộn được xây dựng trên nguyên tắc luận đề : sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dần đến bước ngoặt tư tưởng.

Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu ?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, "phẳng lặng và tươi mát" ; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cánh biển đông huyền bí, sâu thẳm… đã đem lại những rung động " tuyệt đỉnh", khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức "tưởng như chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn". Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm án một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn cùa nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ "náo nhiệt" tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gất giữa "cái – thấy – phút – trước" với "cái – thấy – phút – sau". Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí : "tôi chắc mẩm" (niềm tin có sẵn), "ngay lúc ấy" (đột biến), "bất giác tôi nghe" (hoang mang trước sự thật).

Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực : người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã "chắp tay lại vái lia lịa : – Con lạy quý toà…". Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối : "gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá" vì "không thể nào hiểu được" thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng : họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hô, những câu nói chất phác mà "thấu tình đạt lí" của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối "những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi…". Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và dơn giản "va" phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những người dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thực sự hiệu quả để thay đổi số phận họ.

Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện : "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được !…". Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy rẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời cứa người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đám để chịu dựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hé kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà "đau đớn", "xấu hổ, nhục nhã" khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà "mếu máo" gọi tên Phác, "ôm chầm lấy nó", "chắp tay vái lấy vái để" đứa con, bà cũng dã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác).

Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ "trao" cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cá hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi "như lạc đề" của Phùng : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không ?" hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu : "Vậy sao không lên bờ mà ở ?") nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí : bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng "như nàng tiên cá" lại "được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ", người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng,… Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà dã dần dần "mở mắt" cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gì. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thìa được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hiểu độ lượng trong giọng nói đứt quãng của bà ta : "Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu […]. Giá mà lão uống rượu […] thì tôi còn đỡ khổ […]. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão […] đưa tôi lên bờ mà đánh […]”. Phùng và Đẩu đã “cùng một lúc thốt lên” : “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ họ chỉ thực sự “tâm phục khẩu phục” khi phát hiện cái sức mạnh nội tâm kì lạ nâng đỡ người đàn bà : “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xẩu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ […]. Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.

Nguyễn Minh Châu đã thật "cao tay" khi làm cuộc hoán đổi vị thế giữa Phùng, Đẩu với người đàn bà – cuộc hoán đổi để xác lập quan niệm dân chủ về con người. Tính cách đầy mâu thuẫn của người phụ nữ hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hoá ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này : "Con người sống trong xã hội, sống giữa cộng đồng đã từng tồn tại từ lâu và còn tồn tại mãi nhưng họ phải chịu biết bao đau đớn để cho người và người được bên nhau, gắn bó với nhau trong cái quần thể xã hội đầy mâu thuẫn trên chiếc thuyên nọ… Không phải lúc nào con người cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu biết bao nhiêu điểu đau khổ bất công để sống nuôi nấng con cái, làm cho đời sống bất diệt". Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư se xót nên tình cảm nhân đạo của ông thường nghiêng về phía những thân phân bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền – những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ (như Liên trong Bến quê, Thai trong cỏ lau,…).

Nguyễn Minh Châu có những câu văn giản dị như lời nói thường, không một chút "làm văn" mà đầy dư ba. Câu văn sau đây là một ví dụ – đấy là câu Phùng hỏi người đàn bà : "Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?". Vâng! Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn như thế mà nói đến niềm vui liệu có xa xỉ quá không ? Nhưng mấy ai đã hiểu sự tận tuy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với họ. Nghe người đàn bà hàng chài nói về niềm vui, Đẩu như "bừng ngộ" : "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ". Đến đây người kể chuyện (Phùng) đã nhập hẳn vào dòng tâm tư của Đẩu, sự giác ngộ của Đẩu cũng chính là sự giác ngộ của anh. Hành trình tự nhận thức của cả hai luôn có sự song trùng. Nhưng qua Phùng – người phóng viên nhiếp ảnh, Nguyễn Minh Châu còn thực hiện một cuộc "tự vấn" của văn chương : giữa cuộc sống cơm áo nhiều hệ luỵ, văn chương chọn cách ứng xử nào ? "Chiếc thuyền ngoài xa" rất khác với nó khi đã cập bờ. Nghệ thuật tiếp cận hiện thực thế nào để không bỏ quên số phận con người ? Nhan đề truyện rõ ràng là một ẩn dụ sâu sắc (nó gợi nhớ các nhan đề như Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, cỏ lau,…), một câu hỏi bỏ ngỏ cho những ai muốn chọn văn chương nghệ thuật để bày tỏ tình yêu con người. Câu hỏi này ám ảnh tới mức dù bức ảnh lịch năm đó của Phùng chỉ có hai màu đen trắng mà sau này mỗi lần ngắm nó Phùng cứ thấy hiện về cái màn sương màu hồng (lãng mạn) như đối lập với dáng đi chậm rãi, vững chắc của người đàn bà trên cát (hiện thực). Một lời nhắc nhở hay một niềm tin sâu xa vào sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ ? Chắc chắn rằng, với Nguyễn Minh Châu, với truyện ngắn này, nghệ sĩ không có quyền nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dãi mà phải đào xới vào những tầng sâu đời sống để làm lộ ra những gì có khả năng đánh thức tình yêu thương con người.

Tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách – số phận đã giúp nhà văn giãi bày nỗi băn khoăn, trăn trở về tính phức tạp đa chiều của cuộc sống, về bao nhọc nhằn còn đè nặng lên số phận con người, về mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và hiện thực. Khát vọng đổi mới văn chương bằng việc đi tìm một quan niệm chân thật hơn, hợp lí hơn về con người dựa trên nền tảng triết học nhân bản qua giọng văn thấm thìa chiêm nghiệm, qua cái nhìn dân chủ hoá của người trần thuật,… đã trở thành nhu cầu tự vấn mạnh mẽ, trung thực, đủ sức khẳng định tư cách "người mở đường" cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.

 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 2

Nguyễn Minh Châu là người mở đường tinh anh cho thời kì đổi mới. Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận của con người và trách nhiệm của người nghệ sĩ với những số phận ấy. Sau thập kỉ 80 với tài năng của mình Nguyễn Minh Châu đã trở thành một người tiên phong cho văn học thời kì đổi mới. Trong giai đoạn này ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh và , trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa.

Chiếc thuyền ngoài xa được viết vào tháng 8/ 1983, tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước thống nhất trong nền độc lập, nhiều vấn đề của cuộc sống trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Tác phẩm ra đời như một tất yếu khách quan, văn học phải đổi mới do những tác động của đời sống chính trị kinh tế văn hóa xã hội.

Trước hết tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp với người nghệ sĩ Phùng. Đây là một tình huống truyện nhận thức mang tính khám phá mà qua đó ta thấy được biết bao nhiêu là điều trong cuộc sống này. Trong bộ lịch năm ấy cấp trên có giao cho Phùng đi chụp một bức ảnh thuyền và biển. Chính vì thế mà Phùng có cơ hội được đi thực tế tại vùng biển kia nơi có người bạn của mình ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Nhưng trong bức tranh ấy Phùng lại tìm ra hai phát hiện.

Phát hiện thứ nhất là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ. Người nghệ sĩ Phùng phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh thuyền và biển. Cảnh tượng ấy khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phung tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Anh nhanh chóng nhấc máy ảnh lên và chụp lại khoảnh khắc ấy. Phải chăng cái đẹp đã thanh lọc tâm hồn anh?

Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ. Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người đàn bà ấy mặt thì dỗ đã quần áo thì bạc phếch như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì. Ông ta đi chân chữ bát và có vẻ rất hung dữ. Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bống chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy. Người đàn ông rút thắt lưng ra đánh tới tấp vào mặt người đàn ông khốn khổ kia. Phùng như không tin vào mắt mình. Khi ấy một thằng bé tên Phác chính là con của hai người ấy nhảy lên đánh vào mặt bố mình. Nó thậm chí còn muốn giết ông ta. Thế rồi nó bị bố tát cho một cái và ông ta bỏ ra ngoài thuyền trước. Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia.

Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản xoay một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.

Chứng kiến cảnh ấy Phùng về nói với người bạn mình và hăng hái muốn chính quyền địa phương giải quyết vấn đề cho người phụ nữ ấy. Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời. ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Chính vì thế mà Đẩu và Phùng như mở ra cho mình biết bao nhiêu điều chưa biết trong cuộc sống này.

Người đàn bà kể lại rằng cuộc đời mình. Trước khi thì bà cũng là một người con nhà khá giả thế nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.

Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại vừa chính là nhà của gia đình bà. Về tinh thần thì bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà lại không hề chống lại chồng mình. bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng thì bà biết lòng tốt của họ nhưng bà không thể bỏ chồng được vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Bà cho đẻ nhiều con là cái tội của mình. Từ đó cho thấy bà tuy là một người phụ nữ không học hành nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt nam. Bà chấp nhận hi sinh để sống cho các con cho chồng mình. Muốn để cho chồng được hả cơn giận và lại chính cuộc sống nghèo khổ kia đã làm người chồng như thế chứ ngày xưa ông ta vốn là một người rất hiền lành. Qua đó ta cũng thấy được cuộc sống làm cho con người ta thay đổi rất nhiều.

Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.

Câu chuyện kết thúc khi tấm lịch năm ấy trong bức tranh thuyền và biển Phùng lại thấy một màu hồng nhỏ trong bức ảnh đen trắng ấy. Phải chăng đó chính là người phụ nữ hàng chài kia, bà hiện lên với vẻ đẹp của một tâm hồn chịu thương chịu khó hi sinh cho con mình. Tóm lại qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu gửi đến thông điệp rằng phải nhìn mọi thứ theo đa chiều chứ không nên nhìn mọi thứ một phía. Đồng thời cần phải chống lại nạn bạo lực gia đình.

 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 3

Chiếc thuyền ngoài xa”là thuộc trong số những nhà văn mở đường tài năng, tinh anh nhất cho văn học nước ta hiện nay, là đứa con tinh thần của Nguyễn Minh Châu. Quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật chuyển từ cảm hứng sử thi lãng mạn  sang cảm hứng thế sự đời thường đã được thể hiện rõ ở. “Chiếc thuyền ngoài xa”. Ở tác phẩm này ông thật sự thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật, ông đã xây dựng được các nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu mà nó cũng góp phần thể hiện những triết lí về cách nhìn cuộc sống. Triết lí đs được rút ra từ cuộc sống, từ bức tranh chân thực của cuộc sống con người. Cuộc sống vốn luôn chứa đựng nhiều khó khăn nhiều ngang trái hơn là cái màu hồng mà nó đang hiện ra. Không chỉ thế để có một cái nhìn thấu đáo con người phải trực tiếp đi vào cuộc sống đó và có cái nhìn đa chiều chứ không phải phiến diện nữa.

Tác phẩm có các nhân vật chính là Nhân vật Phùng, người đàn bà, người đàn ông, bé Phác và nhân vật Phùng. Với nhân vật Phùng là một người quý trọng và say mê nghề nghiệp nhiếp ảnh của mình, anh được trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp một bức ảnh thuyền và biển trong sương mù vào giữa tháng bảy để in trong bộ lịch năm sau. Anh muốn tìm tới những điều mưới lạ và đẹp đẽ cho nên Phùng đã tìm về vùng ven biển miền Trung nơi chiến trường xưa.

Qua những gì Nguyễn Minh Châu viết về Phùng thì anh là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm, yêu tha thiết cái đẹp. Trước vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật, tâm hồn người nghệ sĩ trở nên khó tả: “tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì đó bóp thắt vào…tôi tưởng như chính mình vừa tham gia vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.

Trước cái đẹp trước vẻ đẹpc của cuộc sống của bức tranh thiên nhiên, thì Phùng như đắm chìm vào không gian đó, không những thế anh cho rằng khi nhận ra khoảnh khắc đó anh là người hanbhj phúc nhất. Trong giờ phút thăng hoa cùng cái đẹp anh cảm nhận cái đẹp chính là đạo đức”. Là người yêu cái đẹp khi mà được chứng kiến được chạm vào vẻ đẹp ấy thì quả là một điều tuyệt vời khó có thể diễn tả nổiPhùng đã bỏ ra thời gian là một tuần lễ suy nghĩ tìm kiếm, phục kích mới chụp được một bức ảnh ưng ý, một cảnh đắt trời cho.

Phùng không chỉ là người yêu cái đẹp mà thờ ơ với mọi thứ mà còn là người căm ghét áp bức bất công, dám đối diện với cái ác và hành động chống lại cái ác. Phùng đã phản xạ một cách tự nhiên như một người yêu sự công bằng au phút ngỡ ngàng thấy cái ác, diễn ra ngay trước mắt,. Anh vội vàng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy đến ngăn cản người đàn ông vũ phu.

Người đàn ông trong tác phẩm vốn dĩ là người hiền lành hơi cục tính nhưng bây giờ sau bao nhiêu chèo chống cuộc sống thì tính cách cũng đổ khác, ông trở nên đọc ác và bẳn tính hơn. ông không ngần ngại đánh lấy đánh để vào người phụ nữ của mình và là mẹ của những đứa trẻ của ông. Như thế trước cảnh bạo lực và độc ác của người đàn ông ta nhận ra rằng cuộc sống sẽ khiến cho con người ta thay đổi chứ đừng vội trách móc.Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.người đàn bà ấy thật đáng cảm thông trân trọng sâu sắc chính bởi vì đức bao dung chịu thương chịu khó của người.mặc dù phải sống với một người chồng vũ phu nhưng chính vì cũng hiểu nỗi khổ của chồng nên bà cũng cam chịu.Chồng của bà la 1 người đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài,những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào.

 Những người như Phùng khi chứng kiến cảnh tượng đó phải trăn trở đối phó ra sao. Chính vì thế cốt truyện đóng góp một phần quan trong không kém trong khắc họa những nội dung của tác phẩm.Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người ,

  Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ. Từ đó ta rút ra một triết lí nhân sinh sâu sắc rằng:” Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.

Tác giả  với lời kể tư nhiên cũng đang là người chứng kiến tất cả những cảnh đó cho nên những cảnh và cảm xúc tới với độc giả thật tự nhiên và đầy những nghệ thuật điển hình giúp tác phẩm ngày một thành công và giàu ý nghĩa hơn.Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 4

Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở đường tinh anh và tài năng nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là 'Chiếc thuyền ngoài xa'. 

Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, 'Chiếc thuyền ngoài xa' đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hương chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể  vầ phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến "giữa phá". Câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại. Tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của 'Chiếc thuyền ngoài xa' là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyên được thể hiện qua hai phát hiên của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một "cảnh đất trời cho": một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó "bóp thắt vào". Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghê thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới". Người đàn ông "có tấm lưng rộng", khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đánh chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này. Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể ddue sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống. 

Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng. Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man "ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ" nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no. Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi "trên thuyền cũng có lúc sống vui vẻ hạnh phúc". Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điêp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống. 

Kết thúc câu truyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.

Với cách xây dựng tình huồng truyện đọc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện( nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.

 Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu – Bài làm 5

Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, thao thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người.” Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như: Cửa sông, Miền cháy, Dấu chân người lính. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Chiếc thuyền ngoài xa được in năm 1983 là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.

Tình huống thắt nút của tác phẩm

Tác phẩm đã chọn được một tình huống hết sức đắt giá và có ý nghĩa. Tình huống ấy chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nhiều nghịch lí của cuộc sống. Phóng viên Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp thêm cảnh một buổi bình minh đầy sương để bổ sung cho hoàn hảo vào bộ sưu tập chuyên đề thuỳen và biển: “ 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển.” Lặn lội hơn 600 cây số,anh đến một vùng đầm phá miền Trung xa xôi mà anh cho là rất thi mộng để săn lấy một bức ảnh hợp với ý đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng. Bao nhiêu ngày nằm phục kích, cuối cùng anh cũng bắt gặp được một cảnh mà anh rất mãn nguyện: “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy. Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Đó là cảnh chiếc thuyền vó  của gia đình một ngư dân đang tiến vào bờ. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tràn ngập hạnh phúc sau khi bấm “ liên thanh” một hồi hết một phần tư cuốn phim ghi lại bức ảnh mà anh cho là “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.” Thế nhưng, chính lúc đang thăng hoa trong tột đỉnh khoái cảm nghệ thuật, người nghệ sĩ nhiếp ảnh và cả người đọc lại phải ngạc nhiên đến sững sờ trước một cảnh tượng nghịch lí đang diễn ra trước mắt. Nguyễn Minh Châu đã đưa đến cho ta một tình huống đầy bất ngờ: có ai ngờ trong cái khung cảnh mà người nghệ sĩ nhiếp ảnh nhìn thấy một sự hài hòa đến toàn bích kia, trong cái cảnh mờ sương đầy thơ mộng kia lại dần dần hiện lên một sự thực trần trụi đầy trớ trêu. Một trong những con đường để đi đến ý nghĩa của tác phẩm là phải phát hiện ra những mâu thuẫn nghệ thuật của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã thực sự đặt người đọc trước một tình huống đầy vấn đề: một người đàn ông vũ phu, tàn nhẫn đến mức như không còn nhân tính; một người đàn bà cam chịu đến mức như mù quáng, vô cảm và một đứa bé với sức phản kháng dữ dội đến mức như những hành động bản năng. Rõ ràng, tình huống ấy có sức khơi gợi rất mạnh tư duy và cảm xúc của người đọc. Tình huống diễn ra bất ngờ và kì lạ đến mức trong mấy phút đầu người nghệ sĩ nhiếp ảnh chỉ biết “há mồm ra mà nhìn”. Từ tình huống ấy, ngòi bút “thâm trầm, buồn lắng, yêu thương nhưng dữ dội ” của Nguyễn Minh Châu  đã tài tình hé mở cho ta đi vào cuộc sống đời thường với bao đa sự, đa đoan của nó. Nhiều người cho rằng loại tình huống mà Nguyễn Minh Châu đặt ra trong tác phẩm là tình huống nhận thức. Điều đó cũng hợp lí vì càng đi sâu vào tình huống càng cho ta ngộ ra, bừng tỉnh ra nhiều điều, những điều không tuyệt bích như một bức tranh sơn mài mù sương mà ngược lại; đầy chất muối, đầy sự mặn chát của cõi bụi trần. Từ tình huống ấy ta nhận ra bao tâm trạng, bao con người, bao vấn đề của cuộc sống.

Hình tượng người đàn ông đánh vợ tàn nhẫn

Nếu nhìn từ xa và quan sát bên ngoài thì hình ảnh người đàn ông đánh vợ hiện lên đầy hùng hổ, táo tợn và tàn nhẫn. Thế nhưng, theo dõi tâm lí, hành động của con người này mới vỡ lẽ rằng, thì ra con người thô lỗ, lạnh lùng như gỗ đá ấy cũng biểu hiện những tâm trạng, cảm xúc khiến người đọc phải suy ngẫm.Quan sát kĩ chúng ta nhận thấy vấn đề: khi cùng lội vào bờ, đôi mắt người đàn ông “lúc nào cũng dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà” thế nhưng khi đã đi khuất vào sau những chiếc xe tăng hỏng thì người đàn ông mới lập tức trở nên hùng hổ, dữ tợn đến không ngờ. Trong cái thân hình hộ pháp đậm chất biển khơi kia như đang dồn nén bao gánh nặng bắt buộc phải được trút xuống, bắt buộc phải được thoát ra. Trong từng cơn giận lão trút xuống lưng người đàn bà ta nhận ra cái “giọng rên rỉ đau đớn” và câu nói đi kèm: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Câu nói cửa miệng “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ” giúp ta định hướng rằng, hành động vũ phu man rợ của người đàn ông không phải xuất phát từ nguyên nhân là một tội lỗi nào đó của người đàn bà mà nguyên nhân là gánh nặng cuộc sống, gánh nặng gia đình với một đàn con nheo nhóc đang đè lên vai người đàn ôn trụ cột này. Đàn con thì càng ngày càng đông đúc, nên những trận đòn ngày càng dài hơn, cay cực hơn. Người đàn ông trút bao căm hờn của tình cảnh gia đình lên đầu vợ bằng bạo lực, bằng thói vũ phu đến man rợ là điều đáng giận, đáng phê phán. Thế nhưng, qua tình huống truyện, qua cái “giọng rên rỉ đau đớn” ta nhận ra cái tình cảnh khốn cùng đến bế tắc đè nặng lên bờ vai, khối thịt vốn đã không thể đen hơn, rám nắng hơn trong sự vật lộn với biển khơi của người đàn ông vùng biển.

Hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục chịu đựng đòn roi

Hình ảnh người đàn ông đánh vợ đã kì lạ nhưng hình ảnh người đàn bà câm lặng, nhẫn nhục chịu đựng đòn roi lại càng kì lạ hơn. “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng người đàn bà ấy đã “không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. Người đàn bà trót gây nên tội lỗi gì để rồi cam tâm nhận lấy sự tả giá hay chi ta tăm tối, mù quáng đến mức không còn cút ý thức? Những giả thiết ấy đều bị đánh đổ bằng những điều mà người đàn bà trình bày trước vị chánh án của vùng biển. Qua những cảnh có tính chất “mở nút” của tình huống, ta nhận chân giá trị của hình tượng, đó là những vẻ đẹp tuyệt vời nơi người phụ nữ khốn khổ ấy. Người mẹ ấy luôn cam tâm nhận lấy nỗi đau thể xác nhưng chị còn phải khốn khổ hơn với nỗi đau tinh thần. Ở trên chiếc thuyền chật chội, túng thiếu và nheo nhóc những con với cái kia; tiếng cười niềm vui hạnh phúc trở nên thật hiếm hoi. Những khi trời không yên, biển không lặng, cuộc sống trên những con thuyền ấy càng trở nên gieo neo. Thế là, bao nhiêu cay cú, uất ức, người chồng vũ phu lại trút lên đầu người đàn bà, làm như người đàn bà ấy là nguyên nhân trực tiếp gây nên sự bế tắc kia. Dù oan trái nhưng chị tự nguyện chấp nhận với một lời khẩn cầu cho con: khi con cái lớn lên hãy “đưa tôi lên bờ mà đánh.” Bà cam tâm nhẫn nhục chịu đựng chỉ mong sao đừng gây nên sự tổn thương cho những tâm hồn trẻ thơ. Trong hoàn cảnh đói khổ, quẫn bách của cuộc sống thuyền chài, suy nghĩ về sự hành xử như vậy, giàu tình thương và đức hi sinh biết bao. Có hiểu được điều đó ta mới đồng cảm với tâm trạng của người mẹ ấy khi vô tình để con trai chứng kiến cảnh bà bị người chồng đánh đập dã man sau những chiếc xe tăng cũ nát kia. Người mẹ cảm thấy: “Vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã ”, đau khổ vì lo lắng cho con trước rồi mới đến xấu hổ, nhục nhã cho mình. Chứng  kiến những trạng thái tình cảm này không ai không cảm thấy xúc động: “miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”.

Bên cạnh tình thương và sự hi sinh, chị còn là người biết sống và biết thấu hiểu mọi lẽ đời. Có điều, nhân hậu và vị tha biết bao nhiêu khi chị không nghĩ đến mình, chỉ thấu hiểu cho chồng và cho tương lai của đàn con đông đúc kia. Một người chồng đầy quái gỡ, nói như vị chánh án: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng như hắn”. Thế nhưng, khi được vị thẩm phán gợi ý cho con đường giải thoát thì chị lại khẩn thiết cầu xin: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Cách hành xử của chị khiến Đẩu, vị bao công của cái phố huyện vùng biển, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chính người đàn bà có vẻ ngoài xấu xí và trái tim nặng trĩu khổ đau đã giúp anh ngộ ra bao điều. Chị nhìn suốt cả đời mình để đưa ra một chân lí, giản dị, mộc mạc nhưng thấm bao vị mặn chát của đời thường: “Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Nhưng cái chân lí đích thực và đẹp đẽ hơn là: “Đàn bà ở trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Có lẽ chính thiên tính nữ ở người đàn bà đã giúp Đẩu, vị chánh án rành rỏi bao qui định của luật pháp “vỡ ra” bao điều cay đắng của luật đời. Bên cạnh Đẩu, người đàn bà còn để lại bao dư vị đắng cay cho người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Tình huống khép lại nhưng bao nhận thức cuộc sống lại được mở ra. Đó là ý đồ nghệ thuật đầy tài ba của tác giả thiên truyện.

Những hình ảnh biểu trưng và sự thức nhận đau đớn về bao giá trị sống

Cùng với việc xây dựng tình huống là những hình ảnh biểu trưng có sức gợi , sức kết lắng ý nghĩa tư tưởng lớn. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, những hình ảnh biểu tượng ẩn chứa bao ý nghĩa sâu xa và chính những hình ảnh này kết lắng và chứa đựng chủ đề tư tưởng tác phẩm.

Trước hết là cảnh tượng người đàn ông đánh vợ một cách thô bạo và man rợ đằng sau những chiếc xe tăng hỏng. Trên mảnh đất đầm phá đầy tinh thần cách mạng ấy, chiến tranh đã đi qua từ lâu. Những chiếc xe tăng, chứng tích của một thời bom đạn ác liệt giờ trở thành phế tích đang dần mục sét qua năm tháng và chất muối mặn của vùng biển. Những chiếc xe rà phá bom mìn đang cố gắng thu dọn những gì còn sót lại của chiến tranh có thể vô tình gây nên nỗi đau. Thế nhưng, bên cạnh cuộc chiến đấu ấy, bên cạnh nỗi đau ấy là một cuộc chiến đấu mới, là một nỗi đau mới. Cuộc chiến đấu mới ấy còn cam go hơn, nỗi đau mới ấy mới e chừng còn dai dẳng hơn. Đó là cuộc chiến đấu với đói nghèo, với tăm tối. Trên thuyền phải có một người đàn ông dù người đàn ông đó có man rợ và tàn bạo đến đâu đi nữa. Sự khẳng định hùng hồn như chân lí của người đàn bà làm vị chánh án chỉ biết “trút một tiếng thở dài đầy chua chát”.

Bên cạnh hình ảnh người đàn ông đánh vợ bên bãi xe tăng hỏng là hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và bức ảnh nghệ thuật về chiếc thuyền ngoài xa. Nếu cảnh người đàn ông đánh vợ đầy nghịch lí thì hình ảnh người nghệ sĩ và bức ảnh nghệ thuật lại đầy mâu thuẫn. Thực hiện ý đồ nghệ thuật của vị trưởng phòng về bộ sưu tập về thuyền và biển, người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cuộc sống con người trải qua mười hai tháng trong một năm thì bộ sưu tập có mười hai bức tranh. Bức tranh thứ mười hai qua ống kính của người nghệ sĩ ấy là một cảnh toàn bích từ đường nét, ánh sáng đến bố cục. Vậy mà, cuối cùng anh đã chứng kiến những gì? Trớ trêu, trần trụi và nghịch lí đến kì cùng. Thế nhưng nó lại có đường nét, ánh sáng và lôgic, bố cục của cuộc sống hiện thực. Cùng với vị chánh án, người nghệ sĩ  nhiếp ảnh cũng “vỡ ra” về “độ chênh” giữa cái đẹp của nghệ thuật được thu vào ống kính ống kính trong trí tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ và dư vị đắng cay đến xót xa trong cái đa đoan của cõi đời. Mười hai bức tranh nghệ thuật về một vùng đầm phá thơ mộng, mờ sương hay mười hai tháng với bao cơn bão tố và những trận đòn tói tấp của gia đình người đàn bà khốn khổ kia. Với hình ảnh biểu tượng này, một lần nữa, Nguyễn Minh Châu thủ thỉ với người đọc rằng: cũng như vị chánh án, người nghệ sĩ cần có cái nhìn cận nhân tâm hơn. Những bức ảnh nghệ thuật và nhan đề “chiếc thuyền ngoài xa” gợi bao thức nhận đau đớn: ở đó, không phải là những giọt sương mai thơ mộng như trong tranh thuỷ mặc của một vùng quê yên bình mà là những giọt muối mặn đầy xót xa của cuộc sống trần trụi đời thường. Nghệ thuật chính là cuộc sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc sống gần gũi hơn, có như vậy anh mới phản ánh đúng, mới thấu hi

0