04/06/2017, 00:32

Phân tích hai tính cách trái ngược của Gia-ve và Giăng-Van- giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích Những người khốn khổ của V. Huy-gô).

Nói đến V. Huy-gô, cây đại thụ của văn học Pháp thế kỷ XIX, hẳn không ai không biết đến tiểu thuyết Những người khốn khổ. Cùng với Nhà thờ Đức Bà Pa- ri, đây là tiểu thuyết hiện thực phản ánh tư tưởng của nhà văn cũng như hiện thực của xã hội Pháp đầu thế kỷ XIX. Người cầm quyền khôi phục uy quyền ...

Nói đến V. Huy-gô, cây đại thụ của văn học Pháp thế kỷ XIX, hẳn không ai không biết đến tiểu thuyết Những người khốn khổ. Cùng với Nhà thờ Đức Bà Pa- ri, đây là tiểu thuyết hiện thực phản ánh tư tưởng của nhà văn cũng như hiện thực của xã hội Pháp đầu thế kỷ XIX. Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một trích đoạn trong bộ tiểu thuyết. Những người cùng khổ của V. Huy-gô. Đoạn trích không chỉ thể hiện tình cảm của nhà văn đối với các nhân vật, mà còn bộc lộ tư tưởng rõ nét thông qua hai ...

Giăng Van-giăng, một tù nhân trốn chạy, một người luôn phải hi sinh vì người khác, nhưng lại gặp phải nhiều oan trái. Gia-ve, một tên mật thám của sở cảnh sát, luôn rình mò để bắt Giăng-van-giăng. Hắn là một người đại diện cho công lí lại là quyền và pháp luật. Nhưng người đại diện cho công lý lại là Giăng-Van-giăng. Một sự trái ngược và đầy mâu thuẫn, khi mà kẻ đại diện cho pháp luật, nhân danh pháp luật lại không bảo vệ được công lý. Còn lý là từ tâm con người mà chỉ có một phần là những luật lệ và nguyên tắc. Bởi những khuôn khổ cứng nhắc khô khan, đôi khi thiếu vắng tình người. Chúng ta hãy nhìn Gia- ve, người cầm quyền khôi phục uy quyền là rõ.
 
Giăng-Van-giăng, dưới cái tên Ma-đơ-len đã cứu giúp bao nhiêu số phận bất hạnh, trong đó có Phăng-tin. Người đàn bà ốm yếu gặp nhiều oan trái ấy không biết ông thị trưởng, đáng kính Ma-đơ-len lại chính là tên cướp tên tù khổ sai Giăng-Van-giăng. Một tên kẻ cắp bị bỏ tù vì trót lấy một mẩu bánh mì cho cháu. Khi bị thanh tra Gia-ve đến bắt, Giăng Van-giăng không tỏ ra run sợ hay chạy trốn mà hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh. Còn Gia ve? Trong cái giọng nói của hắn có cái gì đó man rợ và điên cuồng, "không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm".
 
Bản chất con người bộc lộ ngay từ hình dạng, lời nói, hành động cho đến thái độ. Quả đúng vậy. Qua cách miêu tả của nhà văn, ngoài thanh tra mật thám của sở cảnh sát hiện lên chẳng khác một loại cầm thú.
 
Bộ mặt Gia-ve gớm ghiếc đến tởm lợm làm những con người yếu đuối phải sợ hãi. Còn với những người như Giăng Van-giăng, hắn coi như "một đồ vật lạ lùng", hắn đã ôm ghì năm năm mà không hề quật ngã. Điều ấy hẳn đã làm hắn điên đầu suốt năm năm qua. Bởi lẽ quyền lực như hắn mà không làm gì được Giăng-Van-giăng, tên kẻ cắp phải đi tù vì một mẩu bánh mì và chỉ khi bắt được tên trốn tù, hắn mới thấy sung sướng hả hê. Chỉ như vậy hắn mới thấy mình sống có ý nghĩa và quyền lực của hắn mới có đất dụng võ. Một cái nhìn "hào phóng", hắn ban cho những kẻ tội đồ gớm ghiếc như mũi dao đâm vào tận xương tuỷ. Hắn như con thú muốn nuốt chửng con mồi, như tên thợ săn lâu ngày chưa kiếm được khúc thịt nào cho ra hồn.Vì vậy, khi hắn túm được cổ áo ông-Thị trưởng Ma-đơ-len thì hắn sung sướng. Hắn như cáo già bắt gặp gà con. Hắn phá lên cười khi Phăng-tin gọi ông thị trưởng. Cái cười ghê tởm phô ra cả hai hàm răng. Sự miêu tả ấy của nhà văn còn chứa đựng cả sự khinh ghét ghê tởm của con người đối với kẻ đại diện cho quyền lực, Gia- ve tự cho mình là kẻ mạnh, là kẻ nắm công lí và công bằng cho xã hội. Vậy nên chỉ một sự cầu xin của Giăng-Van-giăng để tìm con cho Phăng-tin, hắn cũng không nghe. Hắn không thấy nỗi đau mất con trong đôi mắt của người đàn bà khốn khổ. Do vậy, hắn cũng không nhìn thấy được tấm chân tình của Giăng-Van-giăng. Bởi hắn không có tình người và suy nghĩ phải nắm chắc lấy con mồi mà hắn đã để tuột mất năm năm trời. Trước mắt hắn không có con người khốn khổ, cũng không có vị hiệp khách nào. Chỉ có gã thợ săn đang nắm lấy con mồi là Giăng-Van-giăng, miếng thịt ngon mà hắn phải cất nhiều công mới tìm được. Chính vì sự tàn nhẫn ấy của hắn đã đẩy con người khốn khó Phăng-tin vào chỗ chết. Lời buộc tội của Giăng-Van-giăng cũng chính là lời kết tội của nhà văn đối vói bọn cầm quyền. Đối với những người như Gia- ve không có gì bằng quyền lực. Quyền lực là vạn năng và chúng chẳng cần đến trái tim; đến tình người. Đến nỗi khi Phăng-tin chết và Giăng-Van-giăng nổi giận, hắn cũng sợ lắm, nhưng cái hắn sợ hơn là để xổng mất Giăng Van- giăng, để mất uy quyền. Thế nên dù sợ hãi, hắn vẫn đứng canh và mắt không rời tên tù khổ sai đang quỳ bên xác người chết.
 
Một loại cầm thú mang trên mình bộ mặt con người. Trong xã hội Pháp lúc bây giờ có biết bao nhiêu kẻ như Gia-ve? Quyền lực lấn át cả tình người, dìm biết bao nhiêu kiếp người nhỏ bé xuống bùn đen của xã hội.
 
Trái với Gia-ve, tên tù khổ sai Giăng-Van-giăng bị coi là mọt họng lại hiện lên như một hình tượng cao đẹp. Giăng không có ý định chạy trốn. Ông chỉ muốn làm nốt nghĩa vụ cuối cùng đối với một con người, tìm lại đứa con cho Phăng-tin. Và nếu Gia-ve được miêu tả hết sức sinh động qua từng lời nói, ánh mắt, thái độ..., thì Giăng chỉ là một "cái bóng mờ", cái bóng làm tăng thêm sự tàn ác của Gia-ve. Chỉ đến đoạn trích, khi Giăng sửa sang cho phăng- tin và thì thầm vào tai Phăng-tin thì ông mới hiện rõ. Tuy nhiên, dù chỉ là "cái bóng mờ" ở phần đầu đoạn trích, nhưng hình ảnh của Giăng vẫn hiện nên rõ nét, đặc biệt cuối đoạn. Quả là phi lí. Thế nhưng hiện thực luôn chứa đựng những nghịch lí. Đỡ Phăng-tin lên giường, ông ngồi mải miết yên lặng và chẳng nghĩ đến điều gì trên đời này nữa. "Trong nét mặt và dáng điệu ông chỉ thấy một nỗi thương xót không tả". Ông thương cho người đàn bà đã chết không gặp lại con. Thương cho phận mình lại sắp trở thành tù khổ sai. Hay thương cho một xã hội với một kiếp người như ông và người cẩm thú như Gia-ve? Ông đã nói những gì với Phăng tin? Không ai biết. Chỉ biết rằng khi ấy, trên khuôn mặt nhợt nhạt của Phăng-tin có một nụ cười rạng rỡ và sáng lên một cách lạ thường "chết tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại". Đi lên thiên đường? Và đó là phải chăng là sự giải thoát duy nhất đối với những kiếp người nghèo khổ. Nâng bàn tay Phăng-tin lên và nhẹ nhàng đặt vào đó một nụ hôn. Giăng-Van-giăng tiễn đưa chị vào cõi vĩnh hằng và cũng tiễn đưa được kiếp người thoát khỏi nỗi khổ.
 
Như vậy, với ngòi bút miêu tả tinh tế và giàu cảm xúc, V. Huy-gô đã xây dựng nên hai tính cách trái ngược nhau đại diện cho hai lớp người khác nhau. Qua đó cũng chứng tỏ được tình cảm của nhà văn với các nhân vật của mình. Đặc biệt là Giăng-Van-giăng, một người tù khổ sai nhưng giàu lòng nhân ái.

0