25/05/2017, 00:56

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Văn mẫu lớp 9

Đánh giá bài viết Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn tỉnh Thái Bình Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết : Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, Dữ răn việc trước, lành ...

Đánh giá bài viết Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn tỉnh Thái Bình Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết : Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, Dữ răn việc trước, lành dè thân san. Trai thời trung hiếu làm đầu, ...

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi môn Văn tỉnh Thái Bình

Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết :

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,

Dữ răn việc trước, lành dè thân san.

Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình…

Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lí, nhân cách con người. Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta – nhất là bà con ở Nam Bộ – yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật toả sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lí bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.

Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm – ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga – nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa. Đó là Lục Vân Tiên – chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc "nghĩa". Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân. Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh : dân thì "than khóc tưng bừng – Đều đem nhau chạy vào rừng lên non" ; bọn cướp thì "xuống thôn hương – Thấy con gái tốt qua đường bắt đi". Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn : "Tôi xin ra sức anh hào…", Lục Vân Tiên nhanh nhẹn "Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy", xông thẳng vào giữa bọn cướp.

Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp "Mặt đỏ phừng phừng", dữ tợn như một con ác thú. Chúng "Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng". Lực lượng thật quá chcnh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành "Cứu người ra khỏi lao dao buổi này", với vũ khí giản dị "cây gậy bên đàng". Vậy mà, chàng không chút nao núng :

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.

Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc : "tả đột, hữu xông – Khác nào Triệu Tử…" đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đương Dang Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành. Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa… hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.

Lâu la bốn phía vỡ tan,

Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.

Phong Lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhỡn tiền : Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm dược một việc "nghĩa", một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.

Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,… tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi : "Ta đã trừ dòng lâu la". Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến "Nam nữ thụ thụ bất thân", song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì:

Vân Tiên nghe nói liền cười

"Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên" (Xuân Diệu – Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu :

Làm ơn há dễ trông người trả ơn.

Nay đà rõ đặng nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.

Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào ?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện. Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc "nghĩa" ? Làm việc "nghĩa" thì không nên đợi trả ơn, tính hon thiệt,… vì "ơn nghĩa" là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người "rõ đặng nguồn cơn" – nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói : "Kiến ngãi bất vi vô dùng dã". Nghĩa là "Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm". Cách nói của chàng giản dị hơn : "Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng". "Phi anh hùng" là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa đê đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh. Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều : "Anh hùng tiếng đã gọi rằng – Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.

Còn Kiều Nguyệt Nga là một cồ gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khói tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cám ơn ân nhân :

Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trâm năm cũng bỏ đi một hồi.

Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.

Nói "Tiết trăm năm" là nói việc hộ trọng của cả một đời người. "Lạy rồi sẽ thưa" cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiểu, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư – con quan tri phủ – nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân. Đạo đức ấy là chữ "ân", chữ "nghĩa". Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền dáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, "nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam" (Xuân Diệu) :

Gặp đây đương lúc giữa đàng,

Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Nguyệt Nga nói tới "của tiền", "vàng bạc" để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới "báo đức thù công" – đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở "Lấy chi cho phí tấm lòng…" để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi. Chí đến khi thấy "Vân Tiên nghe nói liền cười…" và an ủi : "Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng", Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu.

Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng : Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.

Vân Tiên, Vân Tiền, Vân Tiên,

Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ…

Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư. Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lí thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì : đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc hoạ phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi – Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình. Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2

Với Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của đất Đồng Nai, bên cạnh những bài văn tế, bài thơ sục sôi quân cướp nước, chứa chan tình yêu nước thương dân trong cảnh li loạn; là những truyện thơ nêu cao nhân nghĩa, đạo lí làm người. “Truyện Lục Vân Tiên' đã làm cho tên tuổi Đô Chiểu trở thành bất tử. Trung, hiếu, tiết, nghĩa đã chiếu sáng lung linh những vần thơ đẹp:

“Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình".

Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là hai nhân vật trung tâm của truyện thơ sáng ngời trung hiếu, tiết hạnh.

Đoạn thơ "Lục Vân Tiên đánh cướp" là một trong nhưng đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sự của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa thành mẫu người anh hùng, lí tưởng tuyệt đẹp: lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả.

Lòng thương người là đức hạnh tốt đẹp nhất của Lục Vân Tiên. Từ giã thầy, chàng xuống núi, hăm hở về kinh đô ứng thí. Lộ trình đầy gian nan. Giữa đường, Lục Vân Tiên bất ngờ gặp nhân dân dắt díu nhau chạy trốn, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết. Chàng đã ân cần hỏi han sự tình đầu đuôi và quyết ra tay đánh cướp đê cứu dân lành thoát khỏi cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng:

"Tôi xin ra sức anh hào,

Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”

Căm giận lũ bất lương, Lục Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đã đứng về phía nhân dân, quyết bảo vệ dân:

"Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".

Đạo lí của nhân dân ta rất đẹp “Thương người như thể thương thân". Lục Vân Tiên đã hành động vì tình thương bao la ấy.

Tình thương người đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm cho người thư sinh họ Lục. Lũ cướp rất đông và đáng sợ gươm giáo sáng ngời. Tướng cướp Phong Lai "mặt đỏ phừng phừng" đầy sát khí. Hắn dữ tợn và có sức khoe muôn người khôn địch! Giữa vòng vây của lũ cướp, không một tấc sắt trong tay, một mình với cành cây làm gậy, Lục Vân Tiên đã dũng cảm đánh cướp. Đột kích bên tả, xung phong bên hữu, chàng tung hoành giữa bọn cướp. Chúng bị đánh tơi bời. Bọn lâu la đã khiếp đảm quăng gươm giáo bỏ chạy tan tác. Tướng cướp Phong Lai bị tiêu diệt. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã so sánh Lục Vãn Tiên đánh cướp với chiến công của hổ tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Dương Đang thời Tam quốc để ca ngợi tinh thần quả cảm của người anh hùng vị nghĩa:

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.

Lâu la bốn phía vỡ tan,

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.

Phong Lai trở chẳng kịp tay,

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong".

Giọng thơ hùng tráng vang lên diễn tả trận đánh cướp đầy kịch tính hấp dẫn.

Lục Vân Tiên là một anh hùng vị nghĩa cao đẹp.

Đánh tan lũ cướp sơn đài, Lục Vân Tiên đã giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga và Kim Liên. Cuộc kì ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra cảm động và đầy tình người. Kiều Nguyệt Nga muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê, để cha nàng "báo đức thù công":

"Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".

Nhưng Vân Tiên "nghe nói liền cười". Một nụ cười rất tươi, biểu lộ một tâm hồn cao cả: vô tư, hào hiệp, khảng khái. Chàng xem việc đánh cướp của mình là một hành động nhân nghĩa. Người tráng sĩ phải ra tay cứu nhân độ thế, diệt trừ cái ác, chở chẻ bênh vực người lầm than, bị áp bức. Nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì còn đâu đáng mặt anh hùng nữa ?

"Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng'.

Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên trang cốt cách tráng sĩ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài. Sống và hành dộng theo phương châm: "Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ". Vân Tiên cũng như người anh hùng Từ Hải trong "Truyện Kiều".

"Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dầu thấy bất bằng mà tha!"

Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc hoạ thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Tuy nhiên hình tượng này rất chân thật vì lòng thương người, chí quả cảm, tinh thần vị nghĩa của Vân Tiên đậm đà màu sắc đạo lí nhân dân ta. Trên một trăm năm mươi năm qua, nhân vật Lục Vân Tiên được nhân dân ta yêu mến, hâm mộ. Tinh thần chiến đấu kiên cường của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và đế quốc trong hơn thế kỉ qua đã làm cho ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp lí tưởng của người anh hùng Lục Vân Tiên. Tấm gương sáng chói ấy mãi mãi là một minh chứng hùng hồn về sức mạnh thẩm mĩ của thi ca, của truyện thơ Lục Vân Tiên mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho đời.

Tinh thần nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên như viên ngọc quý sáng bừng lên dư vị ngòi bút sắc nhọn của Nguyễn Đình Chiểu:

"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà."

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kì về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.

“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.

Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp,  là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.

Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ.  Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:

“Vân Tiên tả đột hữu xông

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang

Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đản này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:

“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”

Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đpẹ của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lậy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái ta là phận trai”

Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 4

Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:

Vân Tiên ghé lại bên đàng,

Bẻcây làm gậy nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,

Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân”…

Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên “giữa đường gặp cảnh bất bình”, hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động. Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỉ…Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ “vào cuộc” của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động “tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng…” mạnh mẽ ấy. Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và… hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp “làm thói hồ đồ hại dân” là xống vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!

Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, cũng không “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậmnét về chàng. Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra,

Nàng là phận gái, ta là phận trai…

Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đốivới Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ. Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng. Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn – điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, “Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”… vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.

Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết… Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ – Vân Tiên “bẻ cây làm gậy” có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực. Bất kì một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau. Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Yiệc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà

Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:

Chút tôi liễu yếu đào thơ,

Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.

Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng…

Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cùng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.

Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quv, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga… Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.

Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 5

Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng lung linh trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Lục Vân Tiên. Đây là tác phẩm tiêu biểu và tâm huyết nhất cho giai đoạn sáng tác của nhà thơ trước khi Pháp bắt đầu xâm lược Tổ quốc ta. Trong Truyện Lục Vân Tiên, Lục Vân Tiên là nhân vật chính, có diện mạo khôi ngô tuấn tú, tài đức vẹn toàn, đồng thời có những hành động rất đúng với lí tưởng của chàng:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thể hiện rất rõ điều đó.

Trên đường lên kinh đô dự thi, Lục Vân Tiên gặp bọn cướp đường. Chàng không ngoảnh mặt làm ngơ mà dừng lại hỏi thăm dân chúng đầu đuôi sự việc:

Vân Tiên nổi trận lôi đình,
Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao.
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Dân rằng: lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.
E khi họa hổ bất thành,
Khi không mình lại xô mình xuống hang?

Trong khi mọi người còn đang hoang mang, sợ sệt thì Lục Vân Tiên chẳng hề băn khoăn, suy tính thiệt hơn cho bản thân mình. Ngay tức khắc:

Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Đó là một hành động vì nghĩa lớn, đáng mặt “nam nhi đại trượng phu”. Đứng giữa vòng vây của bọn cướp đông đúc, có tổ chức, có kẻ cầm đầu, Lục Vân Tiên chửi mắng bọn chúng rồi liền đánh vào bên trái, xông sang bên phải:

Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.

Nếu Triệu Vân, tự Tử Long, một tướng trẻ có tài của Lưu Bị đời Tam Quốc, một mình phá vòng vây của Tào Tháo ở trận Đương Dang bảo vệ được A Đẩu, con nhỏ của Lưu Bị thì Lục Vân Tiên, một mình, một gậy đánh tan bọn cướp hung ác cứu được nàng Kiều Nguyệt Nga. Thật đúng là một con người “vị nghĩa vong thân” (vì việc nghĩa quên thân mình), một bậc anh hùng luôn hướng tới cái cao cả, không bao giờ chịu khuất phục trước cơn khốn khó, hiểm nguy, trước cảnh “chướng tai gai mắt”.

Sau khi được thoát khỏi tay lũ cướp quỷ quyệt, bạo tàn, Kiều Nguyệt Nga bày tỏ lòng biết ơn hết sức chân thành, tha thiết và mong muốn được đền ơn cho Lục Vân Tiên:

Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Tưởng câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Xét cho cùng, việc “báo đức thù công” – đáp lại ơn đức, trả ơn công lao – là một việc phù hợp với những chuẩn mực đạo đức mà cha ông ta đã từng dạy bảo con cháu từ lâu đời. Lục Vân Tiên đã không những cứu mạng Kiều Nguyệt Nga mà còn cứu cả cuộc đời con gái trong trắng, thơ ngây của nàng. Cái ơn ấy cao như núi dài như sông, dù có bạc vàng châu báu cũng chẳng thế nào đền đáp cho tương xứng được. Tuy nhiên, Kiều Nguyệt Nga vẫn khát khao được báo đáp trong khả năng hiện có của gia đình. Giả sử Lục Vân Tiên là một người bình thường, chấp thuận đề nghị của nàng thì cũng chẳng có việc chi sai quấy. Thế nhưng Lục Vân Tiên là người “trọng nghĩa khinh tài”, chính trực, đại lượng, chàng kiên quyết từ chối sự đền ơn:

Vân Tiên nghe nói liền cười.

Đó là “Cái cười đáng yêu, đáng kính sao! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều ở trên môi Vân Tiên”. (Xuân Diệu)

Chàng đáp lại Nguyệt Nga bằng một lời lẽ khiêm nhường, khẳng khái, không vụ lợi, không tính toán:

Làm ơn há dễ trông người trả ơn
(…) Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.

Phải chăng phẩm chất tốt đẹp ấy đã ngấm vào trong máu, vào hơi thở của Lục Vân Tiên cũng như của nhiều người dân Việt Nam tuy nghèo vật chất nhưng giàu tình nặng nghĩa “Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa” (Huy Cận)?

Sau này, khi Nguyệt Nga trao chiếc trâm vàng của nàng:

Thưa ràng: nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin.

Lục Vân Tiên khăng khăng không nhận. Cho nên nàng đề nghị:

Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.

Là người có học thức, sẵn có tâm hồn văn chương phong phú, Lục Vân Tiên chấp nhận đề nghị chân thật nhưng cũng lãng mạn của nàng: Làm thơ cho kịp bấy chờ chớ lâu.

Sỡ dĩ chàng đồng ý là vì thơ văn không phải là của cải vật chất, đó là sản phẩm của tâm hồn con người. Lòng người càng đẹp thì thơ càng hay. Thật vậy, Kiều Nguyệt Nga là cô con gái có tâm hồn trong trắng, giàu ân tình “ơn ai một chút chẳng quên”. Còn "Lục Vân Tiên là chàng trai hào hiệp. Bởi thế, hai tầm hồn cao đẹp cùng nhau xướng họa một bài thơ rồi thanh thản chia tay. Riêng Lục Vân Tiên không hề vương vấn rằng mình đã làm ơn cho người khác. Chàng chỉ ôm ấp và mong mỏi thực hiện một lí tưởng duy nhất:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Quan niệm của nhân vật Lục Vân Tiên phát xuất từ nhân dân “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” – thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người dũng cảm. Đây là nhân sinh quan của người anh hùng. Nhân sinh quan ấy biểu hiện cái đẹp của lí tưởng nhân nghĩa cũng như cái đẹp của đạo lí nhân dân. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, sống gần dân, thân dân, từng cùng dân ăn những bát cơm hẩm với cà thiu, từng cùng dân chạy giặc, từng rơi nước mắt khi thấy nhân dân khổ đau, nghèo túng. Còn nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện của ông cũng là một nho sĩ. Ông ngợi ca nhân vật Lục Vân Tiên anh hùng nghĩa hiệp, đầy tài năng – chí khí, sẵn sàng ra tay trừng trị kẻ ác độc, bênh vực người dân lương thiện yếu đuối, bất hạnh cũng chính là ca ngợi đạo lí nhân dân. Ông ca ngợi Hớn Minh, Lương Tử Trực hay những nhân vật không tên như ông Ngư, ông Quán, lão bà, ông tiều, cùng với những triết lí sống phong phú, súc tích do những con người ấy nói ra cũng chính là ca ngợi đạo lí nhân dân. Đó là đạo lí kẻ ác phải bị trừng trị thích đáng, người lương thiện phải được sống ấm no, hạnh phúc. Cái gốc đạo đức sâu xa, bền bỉ do nhân dân đề ra sẽ giúp con người vượt qua mọi lực cản để thực hiện biết bao hoài bão, lí tưởng trên những chặng đường đời đầy phong ba, bão tố, thác ghềnh.

Tóm lại, tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một khúc ca chiến thắng của những người kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu, là bản kết tội những kẻ bất nhân phi nghĩa. Riêng trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, chúng ta thấy nhà thơ đã vẽ lên bức chân dung tuyệt vời của nhân vật Lục Vân Tiên gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì việc nghĩa, sống đúng với lí tưởng cao đẹp mà chàng đã tự đặt ra cho chính bản thân mình. Do đó, càng yêu mến nhân vật Lục Vân Tiên, chúng ta càng quý trọng Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ, “nhà văn có cái đẹp từ con người đẹp đến văn chương” – càng nhiệt liệt ủng hộ quan điểm sáng tác văn chương của ông:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Từ khóa tìm kiếm

  • phan tich ve dep dung cam cua LUC VAN Tien wa doan trich van tien ghe lai ben dang thac ray than vong tu do em hay lien he thuc tam guong dung cam ma e biet
  • Viet doan phan tich theo cach lap luan tong phan hop khi nguyet nga to y den on chang da tu choi cua bai Luc van tien cuu kieu nguyet nga

Bài viết liên quan

0