25/05/2017, 00:56

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 10

Đánh giá bài viết Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ngãi Nỗi thương mình” (truyện Kiều)là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần ...

Đánh giá bài viết Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ngãi Nỗi thương mình” (truyện Kiều)là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu ...

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Quảng Ngãi

Nỗi thương mình” (truyện Kiều)là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc
 lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.

Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm dầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.

Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”

Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui.

Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.

Ông  đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.

Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.

Giật mình ko chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.

Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:

“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”

Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.

Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn.

Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả:

“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”

Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ”xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ”mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.

“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”

Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.

Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật :

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.

“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.

Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2

Sau khi Thuý Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sính nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiếu làm vợ lẽ nhưng thực ra là y mua nàng về chỗ nhà chứa của Tú Bà. Biết mình bị lừa, Thuý Kiều quyết liệt chống lại âm mưu nhơ bẩn của chúng. Nàng rút dao quyên sinh nhưng không chết. Trong cơn mê, Thuý Kiểu thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát dược số đoạn trường, nàng đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lẩu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên ma cô tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiểu nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man và buộc nàng phải tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích Nỗi thương mình có thể chia làm hai phần:

Phần 1 (từ câu 1 đến 10): cảnh sống ăn chơi xô bổ ở lầu xanh và tâm trạng đau đớn, tủi nhục của Thuý Kiều.

Phần 2 (từ câu 11 đến hết): Thái độ thở ơ của Kiểu trước con người và cảnh sắc, thú vui ở chốn lầu xanh thể hiện ý thức về nhân phẩm của nàng.

Trong đoạn trích này, tác giả kể khá kĩ về tình cảnh và tâm trạng của Thuý Kiều khi đã bị biến thành kĩ nữ. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã dồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lảu. Làm thế nào để vừa phản ánh được hiện thực mà vẫn không hạ thấp nhân vật, vẫn thể hiện được thái độ thông cảm, xót xa của mình và nói lên dược nỗi đau đớn, tủi nhục của nhân vật?

Bốn câu thơ đầu kể về cảnh Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du đã phát huy thế mạnh của bút pháp ước lệ, các hình thức đối xứng cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ phù hợp để miêu tả sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng chốn lầu xanh:

Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Tác giả miêu tả cảnh sống xô bổ, nhơ nhớp chốn thanh lâu bằng những ẩn dụ có hình thức đối xứng như bướm lả / ong lơi, lả gió / cành chim, bằng hình ảnh Cuộc say đầy thảng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai khách phong lưu nổi tiếng, nhầm tô dậm nỗi thương thân, xót phận của Thuý Kiều.

Nhân vật Thuý Kiểu được Nguyễn Du xây dựng thành hình tượng lý tưởng của cái Đẹp và cái Thiện. Khi lâm vào tinh cảnh ô nhục, Thuý Kiểu cố vùng vẫy để tự giải thoát, nhưng càng vũng vẫy thì nàng lại càng bế tắc. Nỗi đau đớn, tủi hờn đối với một thiếu nữ Mai cốt cách, tuyết tinh thẩn như Thuý Kiểu dường như nhân lên gấp bội, vì nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh hoàn toàn trái ngược với nền nếp giáo dục nghiêm cẩn của gia đình mình. Khi thể hiện tâm trạng Thuý Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc vào ngọn bút. Nhà thơ dã miêu tả thật tài tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thuý Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình, xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,.
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thản!

Khi tinh rượu, lúc tàn canh, đó là những lúc đêm khuya, khách làng chơi đã ra vế hết, chỉ còn một mình Kiếu đòi diện với ngọn đèn chong, sống trong cảnh: Cuộc say đấy tháng, trận cười suốt đêm thì chỉ: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Kiểu mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để mình được sống với chinh minh: Giật minh, mình lại thương mình xót xa.

Cái hay của hai câu thơ trên trước tiên lá ở nhịp điệu. Khi / tỉnh rượu / lúc/ tàn canh, nhịp thơ 1 / 2 / 1 / 2 như gợi tửng bước đi chậm chạp của đêm trường. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nổi niềm xót xa, cay đắng trong lòng người con gái đang lênh đênh lưu lạc nơi đất khách. Đến câu thứ hai, Giật mình / mình lại / thương mình /xót xa, nhịp thơ thay đổi thành 2 / 2 / 2 / 2: Hai chữ Giật mình kết hợp với cách ngắt nhịp dột ngột diễn tả tâm trạng hoang mang, thảng thốt của Thuý Kiểu. Tử mình tuy là thanh bằng nhưng không nhọ nhõm mà gợi cảm giác u uất, nặng nể, bởi nó được lặp lại tới ba lấn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức nhu tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghim tiếng khóc.

Thuý Kiểu giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của sô' phận và trước tình cảnh thảm hại của mình lúc này. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thuý Kiểu. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là chính Thuý Kiểu bằng xương bằng thịt. Tác giả xót thương Thuý Kiểu không may rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị huỷ hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, nàng đã tỏ ra ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Đọc đến đây, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.

Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm cả đoạn trích. Chỉ mới bước vào tuổi cài trâm chưa được bao lâu, Thuý Kiều đã buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm gia đình để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó cảu khấp khểnh, bánh xe gập ghểnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Mặc dù đã đau đớn chấp nhận tinh cảnh ngặt nghèo Thôi đành nhẩm mắt đưa chân,, Dề xem con Tạo xoay vần đến đâu. nhưng Thuý Kiều không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm ổ rắn đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện đến thế. Nàng lang phải sõng trong cảnh Chân tròi góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Thuý Kiều luôn có cảm giác Giật mình minh lại thương mình xót xa lả vậy !
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “hiểu” được tâm trạng Thuý Kiểu mà sâu hơn thế, nhà thơ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tinh, đổng điệu.

Thuý Kiều cay đắng nghĩ tới sự đối lập ghê gớm giữa hiện thực đen tối, phũ phàng với quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc: Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường ? Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân. Nàng nhớ lại cảnh sống đầy đủ, êm ấm khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai hoạ. Còn lúc này, nàng đang bị vùi dập tan tác như hoa giữa đường.

Cuộc sống chốn lầu xanh buộc nàng phải đem tấm thân ngà ngọc làm đổ chơi cho thiên hạ. Bẽ bàng, chua xót và tủi hổ biết bao ! Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ sau đó. Trước kia, Kiều được cha mạ nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị bọn người tham ác vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: khi sao, giở sao, mặt sao, thân sao, kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường, tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng chữ, từng câu.

Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Trong đoạn thơ trên, quá khứ đối lập với hiện tại một cách khốc liệt. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh.

Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hoá chẳng nỡ đày đoạ Thuý Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực vạn ác trong xã hội đã tàn nhẫn vùi dập nàng xuống bùn đen. Tha độ thờ ơ đến lạnh lùng của Thuý Kiều thể hiện nàng dứt khoát không buông mình theo dòng đục bởi nàng có ý thức sâu sắc về phẩm giá, về nỗi tủi nhục và nỗi đau thân phận của mình.

Nguyễn Du vẫn sử dụng bút pháp ước lệ thường thấy nhưng cảnh và người ở đoạn trích này đậm đặc tâm trạng:

Mặc người mưa Sở mày Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì. –
Đòi phen gió tựa hoa kể,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh có đủ phong, hoa. tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa (xuân : hoa, hạ : gió, thu : trăng, đông: tuyết), nhưng trước những cảnh đẹp đó, Thuý Kiều vẫn dửng dưng, bởi trái tim nàng đã bị nỗi đau khổ tủi hờn làm cho giá lạnh. Ở lẩu xanh còn có đủ các thú vui: Đòi phen nét vẽ, câu thơ, Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa… nhưng các thú vui cẩm, kì, thi, hoạ ấy vốn đã quá quen thuộc đối với Kiểu giờ đây đều trở nên vô nghĩa:

Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai ?

Tác giả đã thấu hiểu và miêu tả chính xác tinh cảnh của Kiều lúc bấy giờ. Những từ vui gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Thuý Kiều trước thực tại. Một người vốn hồn nhiên, trung thực như nàng mà lại phải vui là vui gượng để chiểu khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía.

Dưới ngòi bút miêu tả sinh động của Nguyễn Du, không chỉ quá khứ đối lập với hiện tại mà trong hiện tại cũng đầy rẫy mâu thuẫn. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng chừng thanh cao, tao nhã:

…Đòi phen gió tựa hoa kể,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trâng thâu;
…Dòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.

Nhưng thật ra tất cả cảnh đẹp, thú vui ấy chỉ là binh phong che đậy cho sự nhơ nhớp, bẩn thỉu của chốn lẩu xanh mà thôi.

Bằng sự thông cảm thực sự và tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ có ý nghĩa khái quát nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Đoạn trích 'Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thán an phận thủ thưởng, cam chịu và nhẫn nhục. Nhưng khi nhân vật: Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng”, chứng tỏ con người bước đầu đã có ý thức vé phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân. Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ để này thấm thìa hơn, sâu sắc hơn so với các tác giả khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tinh thương sâu sắc, chân thành dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương xót chính bản thân mình.

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3

Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sinh nhờ mối lái dẫn đến, giả danh cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ dành của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập rất dã man và buộc nàng phải tiếp khách.

Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 đến câu 1248 cùa Truyện Kiều miêu tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.

Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

Đoạn 1 (từ Biết bao đến tối tìm Trường Khanh): Giới thiệu cảnh trớ trêu của Kiều.

Đoạn 2 (từ Khi tỉnh rượu đến nào biết có xuân là gì): Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều trong hoàn cảnh sống nhục nhã ở lầu xanh.

Đoạn 3 (từ Đòi phen đến mặn mà với ai): Tả cảnh để diễn tả nỗi cô đơn, đau khổ đến tột cùng của Kiều.

Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đốỉ diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.

Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.

Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.

Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế'’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.

Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:

 

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.

Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.

Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.

Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.

Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!

Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.

Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đốì lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.

Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:

Mặc người mưa Sở mây Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.

Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.

Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đốì với nàng đều trở nên vô nghĩa.

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.

Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

 Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.

Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.

Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.

Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.

Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh – Thúy Kiều.

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 4

Sau khi mắc lận sớ Khanh, bị Tú Bà hành hạ đến mức “Uốn lưng thịt đổ…đập đầu máu sa”. Kiều đau đớn kêu lên: “ Thân lươn bao quanh lấm đầu – Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa ” Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh từ đó.

Đoạn thơ 20 câu, từ câu 1229 đến câu 1248 đã nói về những tháng ngày sống trong chốn lầu xanh. Đoạn thơ đã thể hiện một cách xúc động về nỗi đau đớn tủi nhục thương thân xót phận và ý thức cao về nhân phẩm của Thuý Kiều bị ép, bị đẩy vào vũng bùn tanh hôi.

Đây là cảnh Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:

“Biết bao bướm lả ong lơi;

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh “

“Biết bao” là không đếm được, tính được, không nhớ hết. Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên: “ đầy tháng”, “suốt đêm “, “sớm đưa ”, ‘tối tìm”. Phẩi trảii qua “bướm lả ong lơi”, phải “sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh. Phải sống trong cánh “Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm”. Nguyễn Du đã sử dụng tài tình các ẩn dụ: “bướm lả ong lơi”, “cuộc say”, “trận cười”, các thi liệu, điển tích: “lá gió cành chim”, Tống Ngọc, Trường Khanh để diễn tả hiện thực chốn lầu xanh ngày xưa ấy. Tác giả đã lấy cái nhã, dùng lối nói ẩn dụ để tả cái thô. cái bẩn dưới đáy xã hội.

Mười hai câu tiếp theo nói về tầm trạng Thuý Kiều trong những tháng ngày tủi nhục ấy. Các từ ngữ: “giật mình”, ”thương mình xót xa” “khi sao’’, “giờ sao” chứa đầy lâm trạng, ” tâm trạng đau khổ”. Nghĩ về những ngày còn ở với mẹ cha “phong gấm rủ là”, Kiều đau đáu thương cho thân phận mình phải đem nhan sắc làm món hàng cho khách làng chơi. Các điệp ngữ, so sánh ẩn dụ và nghệ thuật tương phản đã nói lên nỗi xót xa đau đớn của Thuý Kiều sau những tháng ngày “bướm lả ong lơi”

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”

Ờ trên đã có: ” khi sao”, “giờ sao”, tiếp theo lại viết: ” mặt sao” ” thân sao ”, lời cảm thán cất lên tè buốt, như những nhát dao cứ cứa vào tim gan vô cùng đau đớn:

“Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”

Tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ (gió, sương, bướm, ong) và thủ pháp phân hợp từ ngữ: “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường’’ để cực tả nỗi tủi nhục của một người con gái bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh nhơ nhớp.

Lúc nào Kiều cũng tự ý thức về nhân phẩm của mình. Các từ ngữ “mặc người”, “nào biết” đã thế hiện rõ ý thức ấy:

“Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì?

Đối với khách làng chơi, những phong lưu “quen thói bốc rời”: như Thúc Sinh thì chốn lầu xanh, cõi yên hoa là cảnh thần tiên, là cánh mộng truy hoan:

“Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bổn bề trăng thâu“.

Không chi có phong, hoa. tuyết, nguyệt, mà còn có cầm, kì, thi. họa:

“Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”.

Trái lại. Kiều vẫn dửng dưng vì nàng đau khổ, tê tái. Mọi cảnh vật đểu nhuốm vẻ sầu thương vì lòng nàng đang đau đáu tủi nhục:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?“

Kiều sống cô đơn và nàng tự ý thức nhân phẩm của mình. Giữa chốn thanh lâu tìm đâu ra ” tri âm” nên nàng sống trong tâm trạng ” vui gượng”. Đó là tâm trạng của một giai nhân ‘”gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

”Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Cấu trúc tứ bình (Phong, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì. thi. hoạ) vói nghệ thuật tương phản và sử dụng câu hỏi tu từ. nhà thơ đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ, tủi nhục, cô đơn của người con gái tài sắc đang vùng vẫy chống chọi lại cảnh đời truy lạc. Ý thức cao về nhân cách, nhân phẩm của Kiều đã được nhà thơ thiên tài Nguyễn Du cảm thông và trân trọng.

Những vần thơ đẹp đã làm tôn lên giá trị nhân bản đoạn thơ “Nỗi thương mình” Giữa chốn thanh lâu mà Kiều vẫn vượt qua mọi cám dỗ. cố vượt lên cảnh ngộ để giữ lấy nhân phẩm. Vì thế sau 15 năm lưu lạc, Kiều phải trải qua ‘thanh lâu hai lượt”, nhưng Kim Trọng càng hiểu nàng hơn ai hết:

” Như nàng lấy Hiếu làm Trinh

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”

Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 5

Trước khi phải chấp nhận tiếp khách làng chơi, Thuý Kiều đã một lần “tự nhận” là người bội bạc. Đó là với chàng Kim. Do sức ép của đồng tiền, nàng – vì đạo hiếu mà phải bán mình cứu cha. Còn lần này khi vào nhà chứa của Tú Bà, không còn làsức ép của đồng tiền nữa, thay vào đó là áp lực của thần quyền. Ây là bóng ma Đạm Tiên. Đối với Thuý Kiều, bóng ma Đạm Tiên như một sự ám ảnh của định mênh. Gần như người con gái sắc tài toàn vẹn này ở vào bước ngoặt quan trọng nào, bóng ma oan nghiệt ấy cũng hiện ra đúng lúc. Nó vừa đóng vai trò một chứng nhân vừa săn đuổi đến cùng. Lần này cũng thế lúc đầu, Thuý Kiều định tự vẫn, nhưng nó nào đã cho: “Rỉ rằng: nhân quả dỏ dang – Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?Như thế là thần quyền thay thế cho đồng tiền thực hiện cái chức năng công cụ cũng cho một sức mạnh quyền uy vô hình khác cao hơn. Ấy là “trời xanh”. Vì vậy, Thuý Kiều dù không muốn đã phải cúi đầu: “Thân lươn bao quản lấm đầu-Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa Đầu hàng số phận như một thứ con chiên ngoan đạo, Kiều đã phải tự đày đọa mình, lấy thân mà trả nợ đời món nợ truyền kiếp như Đạm Tiên đã trả. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ nỗi đau đớn của nàng không có cách nào khác hơn là phải đi vào văn bản.

Một trong những thành tựu lớn về tư tưởng và nghệ thuật trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là ý thức về cái tôi cá nhân. Từ ánh sáng của cái tôi cá nhân đó mà soi rọi vào những cảnh ngộ khác nhau vừa tạo nên một cái nhìn nhất quán trên diện rộng, vừa có độ sâu, tác phẩm văn chương mới có khả năng trở nên một ám ảnh. Trong bối cảnh lịch sử của văn học trung đại (với hệ thống tư tưởng chính thống, với chủ trương phi ngã), “cái tôi” ấy ít có điều kiện nảy sinh và phát triển. Ấy là nói chung. Còn ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với khí thế quật khởi của phong trào nông dân – những người bị áp bức, bị đè nén cả về vật chất và tư tưỏng, một cái gì đó đã bung ra. Nhạy cảm và tiên phong là những trí tuệ bậc thầy vệ nghệ thuật. Bởi họ có trái tim lớn trước khi có một tài năng lớn để xúc động sâu xa, để rồi sau đó biểu hiện (và cả những kí thác) bằng hình tượng, vào hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo ra để đối thoại với muôn đời, Nguyễn Du là một trong số không nhiều như thế.

Đối chiếu với cuốn tiểu thuyết chương hồi của Thanh Tâm Tài Nhân, đoạn Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là hoàn toàn thêm vào chứ không có trong cốt truyện. Trong cốt truyện của nguyên bản thay cho lời kể là một bài ca, sau đó Kiều đem phổ nhạc vào khúc Hồ cầm, khi dạo lên ai nghe cũng não ruột. Bài ca kể tóm tắt thân phận nàng Kiều từ khi gia biến đến lúc mắc vào gian kế của Sở Khanh, nhưng tập trung vào lời dạy của Tú Bà về việc tiếp khách làng chơi.

Có lẽ cảm quan hiện thực của tác giả Truyện Kiều không chấp nhận sự né tránh, bởi mức độ sỉ nhục với con người như thế vẫn còn là chưa đủ. Phải thêm một trường đoạn đến 58 câu lục bát, người đọc mới hiểu được hết nỗi khổ đau và gắng gượng của Thuý Kiều sau khi vừa thoát được nơi hang hùm miệng rắn này đã rơi vào cạm bẫy lần thứ hai sau đó: “Tiếc thay nước đã đánh phèn – Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!". Cũng cần phải nói thêm, Nguyễn Du không tham kể việc. Chứng cớ là khi nói về cái không gian ô uế đó lần sau, ông chỉ nhắc qua. Điều ấy xác minh bản lĩnh nhà thơ trong việc cầm bút.

Về cấu trúc đoạn thơ hai mươi dòng này có thể có hai cách nhìn: phân chia theo bố cục bên ngoài và cũng có thể phát hiện ra một thứ mạch ngầm của liên kết bêntrong. Giữa hai cách xem xét đó, thông thường nên theo phương án thứ nhất. Nhưng dù có như thế thì cả hai vẫn phải đạt đến một sự đối ứng cân bằng để việc phân tích được người nghe chấp nhận. Vậy nên chia đoạn như thế nào? Trong một tài liệu hướng dẫn, có người cho rằng nên chia làm hai đoạn (Đoạn một từ câu 1 đến cấu 12: nói nỗi đau xót tủi nhục phải tiếp khách của Kiều. Đoạn hai: phần còn lại nói sự thờ ơ, cô độc của nàng trước thú vui của khách làng chơi). Và hình như người viết cũng phân vân nên mới nhấn vào cái âm hưởng chính: “Cả đoạn cực tả nỗi đau xót, tủi nhục, chán chường của nhân vật trước cuộc sống hèn hạ mà mình phải chịu đựng. Đoạn trích cũng thể hiện phẩm chất của Kiều tuy sống trong môi trường truỵ lạc mà tâm hồn nàng không vẩn đục, không buông thả vào cuộc sống truỵ lạc ấy. Đó là nét đẹp của tâm hồn nàng”.

Tuy nhiên, cách chia đoạn như trên là không hợp lí. Cần phải dồn tất cả các khái niệm như: đau xót, tủi nhục, thờ ơ, cô độc vào phạm trù tâm trạng để tách chúng ra khỏi cảnh ngộ mà nhân vật rơi vào. Như thế sẽ khoa học hơn và thuyết phục hơn. Cụ thể là nên chia đoạn trích làm hai phần: Phần một gồm có bốn câu đầu là cảnh ngộ phải tiếp khách của Kiều ở lầu xanh của mụ Tú Bà, phần hai gồm mười sáu câu còn lại diễn tả tâm trạng của nhân vật trong cảnh sống tủi nhục xót xa. Cách phân chia này có thể không cân đối về hình thức (số lượng), nhưng lại phản ánh

0