26/10/2018, 17:55

Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu tuyệt hay

Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu Bài làm: “Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một ...

Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu

Bài làm:

       “Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu”(Hoài Thanh). Mang phong cách trữ tình chính trị, thơ ông cả cuộc đời đã gắn liền với cách mạng và nhân dân. Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 vang dội toàn cầu, hòa bình được lập lại toàn miền Bắc, chính quyền cách mạng rời Việt Bắc về lại Hà Nội. Đó là cuộc chia tay lịch sử mang nhiều cảm xúc và cũng là nguồn cảm hứng sâu sắc để Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vừa lãng mạn, vừa trữ tình, tha thiết.

         Tái hiện lại những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến vang bóng một thời, qua đó gợi lại viễn cảnh tươi sáng của đất nước thời chinh chiến đã là những nguồn thi liệu quen thuộc để các nhà thơ khai phá. Mảnh đất Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng, là quê hương, là căn cứ vững chắc trong những tháng năm tiền khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp. Trong giây phút chia li đầy cảm xúc, tâm trạng nhà thơ như lắng đọng với vẻ lưu luyến, thắm thiết cùng những tình cảm gắn bó,thân thương giữa người ra đi và người ở lại:

– Mình về mình có nhớ ta?

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không?

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

 

– Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân ly

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

        Ở đoạn thơ đầu, chính là lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi cũng như là lời ướm hỏi tâm tình của nhân dân Việt Bắc đối với cán bộ cách mạng. Cách xưng hô mình-ta trong ca dao được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo. Nó chứng tỏ được sự thân thiết, gần gũi giữa người kháng chiến với đồng bào Việt Bắc. Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình và cặp xưng hô mình- ta đã gợi nên một cảm xúc lắng đọng. Tố Hữu từng nói rằng:”tôi đã phải lòng đất nước và nhân dân, tôi viết về đất nước và nhân dân như nói với người  đàn bà mà tôi yêu”. Bằng cách gọi thân thiết, tình tứ như tình yêu đôi lứa, cách gọi ấy vốn đã quen thuộc trong ca dao dân ca. Nay được nhà thơ vận dụng để đưa vào thơ, nó mang một ý nghĩa lớn. Tác giả mang tình cảm cá nhân để so sánh với tình yêu lớn của cả dân tộc. Dù là phép so không ngang bằng, nhưng điều đó đã chứng minh được tình cảm lớn của người cán bộ dành cho Việt Bắc, dành cho con người nơi đây. Nhà thơ đã tạo ra một không gian trữ tình thắm đượm nét ưu hoài. “Mười lăm năm ấy” trôi qua, từ khi kháng Nhật cho đến khi những người kháng trở về Thủ đô. Đã mười lăm năm gắn bó thắm tình cùng thiên nhiên và đồng bào nơi đây, đến giây phút chia tay, người đi và người ở không khỏi bàng hoàng, lưu luyến. Câu hỏi tù tư chính là lời ướm hỏi của nhân dân và nhắc nhớ lại những kỉ niệm thủy chung, son sắt, bền chặt. Điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại đã nhấn mạnh được nỗi nhớ sâu sắc, da diết của kẻ ở, người đi. Hiện lên trong khung cảnh ấy, những sự vật và thiên nhiên dường như cũng nghiêng mình, hình ảnh “nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn” đã gợi về một mối quan hệ gắn bó, ân tình. Để rồi trong giây phút phải nói lời tạm biệt, tâm trạng ấy lại có gì đó luyến tiếc, “bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”. Vẻ bối rối trong tâm trí đã khiến hành động của người ra đi bị chi phối. “Áo chàm đưa buổi phân li” dường như là một hình ảnh thân thuộc, nó hoán dụ cho một hình ảnh thân thương về hình tượng những con người Việt Bắc bình dị, đằm thắm. Khung cảnh chia tay đầy vương vấn với những tình cảm chân thực mãnh liệt. Trong cái “cầm tay” để rồi li biệt, người ra đi lại không biết nói gì. Có lẽ, cảm xúc đã quá ứa tràn trong lòng nhân vật trữ tình. Họ cầm tay nhau như thể hiện một tình đoàn kết, keo sơn, cái cầm tay ấy phải chăng là cầm tay nhau để rồi chia li, nhưng đó là sự chia li trong niềm vui chiến thắng của dân tộc. Tiếng lòng nhà thơ như gợn lại một chút bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn, không muốn rời. Tám câu thơ đầu chính là lời ướm hỏi của người Việt Bắc và lời đáp của người cán bộ cách mạng. Niềm vui hòa lẫn trong li biệt, cuộc chia tay với bao kỉ niệm đã qua quả thực rất sâu nặng, trữ tình.

         Cả cuộc đời gắn bó với cách mạng và nhân dân, đất nước. Dường như, trong thơ Tố Hữu luôn là những vẫn thơ giàu nhiệt huyết và tâm tư. Cảm xúc và tình cảm ấy mãi mãi là một tiếng vang lớn trong thơ. Trải qua khoảng thời gian chinh chiến và làm cách mạng, tác giả không khỏi nguôi lòng trong nỗi nhớ thương thân.

– Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

      Những kỉ niệm về thời kháng chiến trường kì được gợi lại như một nét đẹp và những tình cảm đáng quý. Hình ảnh “suối lũ”,”mây mù”, “miếng cơm chấm muối” vốn dĩ đều rất đỗi quen thuộc đối với miền rừng núi cùng cuộc chiến tranh gian khổ. Đây là những hình ảnh hết sức chân thực, bình dị nhưng gợi nên nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trong đoạn thơ, Tố Hữu đã thể hiện cuộc sống nơi miền rừng với bao kỉ niệm. Chi tiết “trám bùi để rụng măng mai để già” đã diễn tả cảm giác trong vắng, lại gợi nhớ về quá khứ sâu nặng, êm đềm. Nhà thơ như mượn cái thừa để nói thiếu, “để rụng” ,”để già” nhưng giờ đây lại thiếu đi cuộc sống gắn bó giữa người miền xuôi với miền ngược. Con người Việt Bắc dù nghèo khổ, bình dị những trong họ luôn có sẵn một tình cảm nồng hậu “hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”. Đó là phép đối để nói lên cái nghèo, cái đói của đồng bào, dù vậy họ vẫn luôn là những con người sống tình nghĩa, thủy chung. Với sau câu hỏi tu từ trong một đoạn thơ, lời thơ như khơi gợi một sự đau đáu, nhớ thương về một miền đất xưa cũ và những con người xưa cũ. Qua giọng thơ vừa ấm, vừa tình, điệu thơ như trôi êm đềm trong mạch cảm xúc. Tác giả cũng đã liệt kê cả những địa danh với những kỉ niệm gắn bó: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào là những hình ảnh tiêu biểu trong kháng chiến, là những địa điểm gắn bó sâu nặng về đẹp đẽ vê tình người kháng chiến. Ý thơ Tố Hữu đa nghĩa một cách thú vị. Cả kẻ ở lẫn người đi đều gói gọn trong cặp xưng hô “mình-ta” da diết. Phép điệp “mình đi”, “mình về”, “mình có nhớ” như một lời nhắn nhủ và nhắc nhớ lại những kỉ niệm thân tình. Mình và ta tuy hai mà một, đó là sự gắn kết thân mật giữa những chiến sĩ cách mạng và người dân Việt Bắc. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau kháng chiến để rồi trong giây phút chia li, cảm xúc lại tuôn trào đến khó tả.

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

     Mạch cảm xúc chân thành vốn là cốt lõi của bài thơ, dòng tình cảm ấy đã tràn vào từng câu chữ trong thơ để nó tái hiện lại khung cảnh buồn li biệt của buổi chia tay. Lời  hỏi, lời tâm tình của người ở lại và câu đáp trả của người về như khẳng định chân lý của tình nghĩa thủy chung son sắt. Đại từ nhân xưng “mình-ta” đã xuyên suốt cả bài thơ, nó được sử dụng linh hoạt và tạo nên sự tha thiết như một lời thề hẹn nghĩa tình. Từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” cũng đã khẳng định được tình cảm chân thật, trìu mến của người cán bố cách mạng. Trong giây phút trở về miền xuôi, cảm xúc ấy không thể đong đếm mà chỉ được gợi tả bằng sự trìu tượng “bao nhiêu”, “bấy nhiêu” để thể hiện một tấm chân tình chan chứa, bao la. Tố Hữu dường như đã hóa tình cảm riêng tư vào tình cảm chung cao cả, ông dùng cảm xúc chân thật của mình, là cảm xúc khi nói với người con gái mình yêu để nói với nhân dân Việt Bắc thương yêu:”nhớ gì như nhớ người yêu/ trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”. Sự so sánh nỗi nhớ mang tầm vóc dân tộc với tình yêu cá nhân đã thể hiện được nỗi nhớ tột cùng, là sắc thái cao nhất và mãnh liệt nhất của nỗi nhớ trong tâm. Nhà thơ gợi lại tất cả những gì là kỉ niệm để ghi tạc vào lòng những thứ vốn đã gắn bó lâu dài, nỗi nhớ về “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, về “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” mang dư âm đậm tình đậm nghĩa.

 Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Nhớ sao lớp học i tờ

Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

       Hình ảnh và những kỉ niệm trong quá khứ hiện lên, nỗi nhớ về thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi núi rừng Việt Bắc càng mặn nồng, tha thiết. Những ngày tháng đắng cay ngọt bùi, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia của sắn lùi”, “những giờ liên hoan”, “lớp học i tờ” đã là những kí ức đẹp và gắn bó trong tình quân dân. Họ sống như một gia đình với tình cảm đáng quý. Con người và cuộc sống tuy nghèo khổ, đói kém, thiếu thốn bộn bề mà lại đằm thắm tình người, son sắt thủy chung. Những con người lam lũ, chịu thương chịu khó ấy mãi là hình tượng đẹp trong thơ ca. Thiên nhiên và con người Việt Bắc mãi là niềm thương yêu lớn trong lòng nhà thơ, họ sống mãi trong tâm trí và tình cảm của người về xuôi. Đồng bào và núi rừng luôn là những dấu ấn in sâu trong tâm hồn người cán bộ khi trở về nhưng lòng trĩu nặng, bước chân không muốn rời.


Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu tuyệt hay

Phân tích bài thơ Việt Bắc

       “Thơ phải được tạo ra bằng từng miligam quặng chữ”. Một tiếng thơ hay như nói lên một nỗi lòng, một tâm sự. Đôi lúc, nhà thơ chỉ có thể dùng thơ để nói lên nỗi lòng của mình về cách nhìn, cách sống về cuộc đời và con người. Miền thiên nhiên rừng núi vốn là đề tài quen thuộc trong thơ, nhưng mỗi lúc một khác, một người một nét nghĩ khác nhau. Đối với Tố Hữu, thiên nhiên và núi rừng Việt Bắc quả là một nét đẹp của sự bình dị mà tự nhiên, yên bình đến lạ thường:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

      Bức tranh bốn mùa chốn núi rừng Tây Bắc đã là một nét đẹp tự nhiên hết sức chân thật, mộc mạc. Ở hai câu đầu đoạn thơ, là nỗi nhớ và những cảm xúc chủ đạo trong khổ thơ ấy, đó như gợi mở một nỗi nhớ sâu sắc về những tình cảm thân thương, trìu mến. Ở phần sau, bức tranh tứ bình hiện lên, đó là nét đẹp độc đáo chốn rừng núi hoang vu được diễn tả qua những nét thơ thật đẹp và thơ mộng. “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, khung cảnh mùa đông hiện lên trước với sắc xanh, sắc đỏ đậm đà, mang dư vị ấm áp trong những ngày đông lạnh giá. Hình ảnh “hoa chuối” với sắc đỏ như một đốm lửa đang sáng rực giữa rừng xanh bao la. Đó là một điểm nhấn, một nét đẹp trong bức tranh. Cùng với đó là hình ảnh con người lao đọng với “dao gài thắt lưng” đã khiến bức tranh ấy như có sức sống, đầy đủ hơn với một dáng vẻ tươi vui, khỏe khoắn mà bình dị, đời thường. Bức tranh tứ bình xuất hiện trong thơ như một nét vẽ với nhiều màu sắc, nhà thơ đã tô điểm lên đó những hình ảnh chân thực, sắc sảo đến từng chi tiết. Bước sang với bức tranh mùa xuân tươi mới :”ngày xuân mơ nở trắng rừng/ nhớ người đan nón chuốt từng si giang”. Trong mùa xuân, hoa mơ đổ trắng trên cả cánh rừng mênh mông như gợi nên một nét đẹp của sự thanh thoát, tinh khiết, trong ngần của màu trắng hoa mơ. Hình ảnh con người lại xuất hiện, nhưng với bức tranh xuân, con người lại hiện ra với dáng vẻ khéo léo, “chuốt từng sợi giang”. Những cảm nhận thật tinh tế với khí thái thanh nhàn cùng hoa mở nở đồng loạt và thật mộc mạc trong hình ảnh con người cần mẫn, chăm chỉ. Bốn mùa với những phong cách khác nhau và dường như khi ở trong thơ, đó lại là một nét đẹp độc đáo với cách nhìn thấu đáo. “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ bước sang trong cái nắng gắt,âm thanh xuất hiện với tiếng ve râm ran giữa mùa hè oi ả để kéo cả “rừng phách đổ vàng”. Khung cảnh trở nên rộn rã, nhộn nhịp hơn. Dường như đó là sự giao hòa của mùa hè, động từ “đổ” như diễn tả một trạng thái mạnh mẽ, đồng loạt, tiếng ve kêu ran khiến “rừng phách đổ vàng” và cái vàng ấy lại tác động đến tiếng ve, đó là sự tác động lẫn nhau của sự vật. Điều đó đã làm cho bức tranh trở nên sống động, vui tươi hơn. Những lời thơ giản dị nhưng thật hàm súc và mang nhiều ý nghĩa. Bước chấm phá cuối cùng của bức tranh chính là mùa thu mang sức sống mới mẻ trong cái êm dịu của thời tiết và sự an nhiên của thế thời:”mùa thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Nhịp điệu đều đặn, nhịp nhàng với những hình ảnh chân thực đã bộc lộ được nét đẹp trong tranh. Hình ảnh ánh trăng dường như cũng đã xuất hiện nhiều trong thơ, đó là biểu tượng của hòa bình, của tự do, chiếu những ánh sáng tươi đẹp đến cuộc sống con người. Âm thanh ở đây chính là “tiếng hát ân tình thủy chung” mang một giọng điệu tâm tình, giàu tính nhạc điệu. Thật đặc biệt khi nhà thơ không theo thứ tự của mùa trong năm mà lại bắt đầu từ mùa đông và kết thúc với mùa thu hòa bình. Phải chăng, đó là khoảng thời gian kể từ khi người chiến sĩ lên Việt Bắc làm nhiệm vụ  cách mạng vào lúc đông sang và trở về khi trời đã sang thu.  Mỗi mùa mỗi cảnh nhưng ở mỗi thời điểm ấy lại đều mạng trong mình vẻ đẹp bình dị của tự nhiên. Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh với sự hài hòa về màu sắc và đường nét cùng những âm thanh rất riêng giữa người và cảnh. Thiên nhiên cảnh vật quen thuộc, bình dị nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Điều đó đã thể hiện được cách nhìn nhận tinh tế của nhà thơ với cái cảm nhận sâu sắc của tâm hồn người chiến sĩ.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

 

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…

Những đường Việt Bắc của ta

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Tin vui chiến thắng trăm miềm

Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

        Thiên nhiên đã cùng con người kề vai sát cánh trong khó khăn, gian khổ. Nhà thơ như đang nhớ về cuộc kháng chiến anh hùng của nhân dân và núi rừng Việt Bắc cùng những chiến sĩ cách mạng. Phép điệp “nhớ” đã gợi tả về một nỗi lòng sâu nặng bởi những kỉ niệm oai hùng, cùng con người nơi đây đấu tranh vì cách mạng. Nỗi nhớ cứ lặp đi lặp lại trong lòng nhà thơ, trong những năm tháng chinh chiến vì độc lập, dường như thiên nhiên núi rừng cũng đã có công rất lớn trong kháng chiến :”rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, cảnh vật nơi đây cũng là một lực lượng kháng chiến hùng hậu với tác dụng to lớn đối với con người. Thiên nhiên và con người đã cùng nhau gắn kết để khẳng định chính nghĩa, chống lại quân thù. Đối với nhà thơ, thiên nhiên hình như cũng có tâm hồn, biết phân biệt địch và ta, cái nhìn đó có lẽ là biểu tượng đẹp xuất phát từ lòng yêu nước, yêu người, yêu nơi đây của tác giả. Nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm trí người cán bộ khi phải trở về. Ông nhớ rõ những địa danh đã từng gắn bó :”Phủ Thông, đèo Giàng”, “sông Lô”,”phố Ràng”, “Cao Lạng”, “Nhị Hà”. Đó đều là những nơi quen thuộc và rất đỗi thân thương, gắn cùng những chặng đường lịch sử vẻ vang. Khung cảnh thiên nhiên hùng tráng của Việt Bắc mang thật nhiều ý nghĩa. Không chỉ có vẻ bình dị, đời thường mà ở đây còn là những cuộc ra quân sôi động để làm nên chiến thắng hào hùng. Đó là đoàn “dân công” lực lưỡng, hùng hậu đang “đỏ đuốc từng đoàn” như thắp sáng cả một tương lai phía trước,”đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Khí thế mạnh mẽ, ngang tàng của cuộc chiến chống Pháp đã vang dội cả cánh rừng Việt Bắc. Không khí ấy được tác giả dùng những động từ mạnh: “rầm rập”, “rung”, “bật’ và các từ láy :”điệp điệp”, “trùng trùng” để thể hiện một khí thế hào hừng, mạnh mẽ không gì ngăn nổi và sức mạnh vô địch của cuộc chiến. Vô cùng mãnh liệt, vô cùng hào hùng, đó là cường điệu của “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay ” với sức mạnh vô cương của thời đại mà ý chí tiêu diệt giặc sực sôi cùng tinh thần đoàn kết dân tộc để vùng dậy chống ách quân thù. Nhịp điệu dồn dập, sực sôi đến cao trào của những đoàn hành quân trên đường Việt Bắc đã thể hiện một khí thế ra trận, quyết chiến với kẻ thù. Với giọng thơ tươi vui, hứng khởi, niềm vui đã lan rộng khắp nơi. Để rồi, mảnh đất Việt Bắc được xem như là quê hương cách mạng, anh hùng kháng chiến và là địa điểm tập trung quân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội toàn cầu.

         Nhớ Việt Bắc, nhớ kháng chiến, nhớ quê hương cách mạng dường như đang thường trực mạnh mẽ với nhiều cảm xúc trong lòng người cán bộ cách mạng Việt Nam. Nỗi lòng người chiến sĩ đã được bộc tỏ rõ ràng qua từng dòng thơ như là những lời tâm sự không rơi lệ nhưng vô cùng cảm thương.

Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công

Ðiều quân chiến dịch thu đông

Nông thôn phát động, giao thông mở đường

Giữ đê, phòng hạn, thu lương

Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

 

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

      Bài thơ “Việt Bắc” mang nỗi lòng đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Nhằm khơi gợi những tình cảm thiêng liêng đối với Việt Bắc, ở mười sáu câu cuối bài, nhà thơ đã bày tỏ sâu sắc tình cảm của mình qua những lời thơ thật mộc mạc. Câu hỏi tu từ như gợi lại những nỗi nhớ về kỉ niệm trong quá khứ đẹp đẽ, thơ mộng. Cùng với đó là những hình ảnh của “ngọn cờ đỏ thắm” với sao vàng lấp lánh và “Cụ Hồ sáng soi”, “Trung Ương, Chính Phủ”, “mái đình, cây đa” đã tạo nên vẻ đẹp tươi sáng với cái nhìn đầy lạc quan của tác giả. Đó là những hình ảnh về cách mạng, về nhà nước và tương lai của dân tộc. Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của những chiến côn lịch sự hiển hách, hào hùng. Biện pháp đối lập :”u ám” và “sáng soi” như hai mặt của một vấn đề. Qua đó đề cao vao trò của vị lãnh tụ cách mạng Hồ Chí Minh- chỗ dựa tinh thần của cách mạng và nhân dân Việt Nam. Kháng chiến gian khổ trường kì và cuộc sống gắn bó suốt mười lăm năm nào có thể quên, nào có thể vơi cạn. Nhiệm vụ kết thúc, người chiến sĩ lại trở về nhưng không thể quên lãng đi những kỉ niệm về một thời chinh chiến đầy khó khăn, vất vả, cùng sống giữa tình người và tình đời Việt Bắc.

       “Thơ là tiếng nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. Sống giữa những dòng thơ thời hiện đại vừa trù phú vừa nhạy cảm, nhà thơ cần có một dòng cảm xúc chân thực, sắc sảo để làm nên thơ. Bài thơ “Việt Bắc” chính là nỗi nhớ về những kỉ niệm xưa, những ngày tháng gắn bó và đoàn kết với con người và rừng núi nơi đây. Tố Hữu đã từng nói rằng:”tôi đã phải lòng đất nước và nhân dân, tôi viết về đất nước và nhân dân như nói với người đàn bà mà tôi yêu”. Bằng cảm xúc mãnh liệt, giọng thơ đằm thắm, ngôn tư hàm súc, giàu hình ảnh cùng những tình cảm hết sức sâu sắc, để tình yêu lớn, tình yêu chung của dân tộc hóa vào tình cảm cá nhân, tình yêu trai gái ân tình, thủy chung. Nỗi lòng về mảnh đất và đồng bào Việt Bắc đã chìm đắm trong thơ tác giả, là nỗi nhớ da diết, ân tình mà mộc mạc, thân thương của người cán bộ cách mạng đối với dân tộc miền núi Tây Bắc nghĩa tình.

Bùi Phương Thảo

0