26/10/2018, 17:55

Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tuyệt hay

Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm Bài làm: “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay-Tố Hữu) Dòng cảm ...

Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Bài làm:

 “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời

Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!”

(Vui thế hôm nay-Tố Hữu)

      Dòng cảm xúc và tình yêu đất nước, quê hương vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Nếu như Lê Anh Xuân đã gây dựng nên một hình tượng anh giải phóng quân qua bài “Dáng đứng Việt Nam”, Tố Hữu đắm chìm trong thơ ca cách mạng với những dòng thơ về con người và Tổ quốc. Chế Lan Viên hân hoan trong “Sao chiến thắng”. Thơ Hoàng Cầm bắt gặp cảnh nước chìm trong đau thương. Thì khi đến với Nguyễn Khoa Điềm qua bài thơ “Đất Nước”- nằm trong tập trường ca “Mặt đường khát vọng” lại thể hiện một cái nhìn toàn vẹn về vẻ đẹp của đất nước và tư tưởng lớn của thời đại:”Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

       Hình hài đất nước từ khi được sinh ra đã phải trải qua bao nhiêu sóng gió, đó là sự hình thành qua nhiều thời đại, là những cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược khi đất nước bị xâm lặng và những biến đổi trong xã hội để gầy dựng nên một “Đất Nước” vẹn tròn, to lớn. Nguyễn Khoa Điềm nhìn đất nước với nhiều khía cạnh, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đất nước luôn là hình tượng đẹp với tiếng gọi thiêng liêng, thân thiết. Bao trùm cả bài thơ là một cách nhìn thấu đáo của tác giả với những cảm xúc chất chứa biết bao nỗi niềm và nguồn cảm xúc bình dị:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

      Trong cách nhìn mới mẻ vả sâu sắc về đất nước, nhà thơ đã rút ra được một quan điểm thấu đáo: đát nước này là của nhân dân, do nhân dân sáng tạo, giữ gìn và bảo vệ. Chất chính luận như hòa quyện cùng chất thơ trữ tình và cách vận dụng độc đáo chất liệt của văn hóa, của văn học dân gian đã làm nên những dòng thơ mang đậm ý nghĩa về lịch sử đằng đằng xa xưa và lòng yêu nước nồng nàn của thi nhân. Đất Nước đã trải qua một quá trình dài cho sự hình thành và phát triển, từ đó khơi dậy nhận thức và trách nhiệm với nhân dân và đất nước. Ở những dòng thơ đầu tiên, với thể thơ tự do, mạch cảm xúc ngắt nhịp không đều đã gợi nên vẻ trầm bổng, mặc nhiên của đất nước qua nhiều năm tháng. Tác giả đã chọn những hình ảnh bình dị để viết và ca ngợi Tổ quốc mình. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, sự hình thành của đất nước không biết có tự bao giờ, điều đó không một ai có thể xác định được, chỉ biết rằng, nó đã có trong “ngày xửa ngày xưa” và bắt đầu “với miếng trầu bà ăn”, khi “dân mình biết tròng tre mà đánh giặc”. Những sự việc ấy đều là những phong tục, tập quán của người Việt xưa. Nhà thơ đã vận dụng điều đó để nói về cội nguồn của Đất Nước trong một khoảng thời gian nào đó không thể xác định. Đất Nước rất thân thuộc, gần gũi được cảm nhận qua những hình ảnh hết sức đơn sơ, mộc mạc: hạt gạo phải “xay, giã, dần sàng”, “cái kèo, cái cột”, ”gừng cay muối mặn”-“muối ba năm muối đang còn mặn/ Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”. Và “Đất Nước có từ ngày đó”, lịch sử phát triển lâu đời đã bắt nguồn từ những miếng trầu, truyền thuyết Thánh Gióng… và cả nền nông nghiệp trồng lúa nước lâu đời. Đất Nước trong đoạn thơ đầu được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận từ chiều sâu văn hóa với một cái nhìn tinh tế, giàu cảm hứng cùng chất liệu dân gian thật độc đáo mà chân thật.

          Đất nước là một thể thống nhất hài hòa không thêt tách rời giữa các phương diện về không gian- địa lý và thời gian-lịch sử. Thế nhưng trong thơ, nhà thơ lại tách Đất và Nước rồi lại hợp lại như một thể hài hòa thống nhất:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mệnh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuát

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn


Phân tích bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tuyệt hay

Phân tích bài thơ Đất Nước

       Cũng giống như những nhà thơ khác, phương diện về không gian và thời gian vốn phải được bão hòa và kết hợp chặt chẽ để tạo nên được thời khắc hợp lý. Nhưng đối với Nguyễn Khoa Điềm , ông lại mang đến một cách nhìn khác lạ, vừa độc đáo, vừa mới mẻ nhưng vẫn nhất quán được hoàn cảnh trong thơ. “Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm”,”là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay”như tình yêu đôi lứa nảy nở. Đất Nước còn bao gồm cả sông và bể:”, Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”,”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”. Đất Nước được tách ra và lại được tái hợp như một điều tất yếu. Hình ảnh không gian vô tận, mênh mông của đất trời, sông bể như là niềm tự hào của dân tộc về vẻ trù phú, giàu đẹp,tài nguyên bao la. Đất và Nước chính là nơi sinh tồn của dân tộc, được truyền đời này qua đời khác, từ quá khứ:”những ai đã khuất” cho đến hiện tại “những ai bây giờ” và đến cả thế hệ tương lai :”con cháu mai sau”. Tất cả đều phải nhớ đến cội nguồn, “nhớ ngày giỗ tổ”.  Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn nhận Đất Nước qua con mắt thật gần gũi, để rồi tạo dựng nên hình hài Đất Nước trong thơ rất đỗi thân quen đối với người con đất Việt. Đó là trong phương diện địa lý, còn về phương diện lịch sử lại mang một hình hài khác. Đất Nước được nhà thơ cảm nhận suốt chiều dài lịch sử. Đó là một dân tộc thiêng liêng với cội nguồn và quá khứ hào hùng, gắn liền với truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ/ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”, và  truyền thuyết các vua Hùng dựng nước mang phong cách giản dị, gần gũi cho đến hiện tại:”trong anh và em hôm nay”, và cả những dự định trong tương lai “mai này con ta lớn lên…”. Đất Nước không tồn tại ở đâu xa xôi mà đã kết tinh, hóa thân cho dáng hình xứ sở, hòa vào trong cuộc sống của con người. Mạch thơ điềm nhiên đã thể hiện những suy nghĩ và trách nhiệm của mỗi con người đối với Tổ quốc và dân tộc. Hình ảnh Đất Nước được hài hòa trong nhiều mối quan hệ, đó là quan hệ cá nhân “khi hai đứa cầm tay/ Đất Nước hài hòa nồng thắm” xen lẫn vào mối quan hệ với cộng đồng toàn dân :”khi chúng ta cẩm tay mọi người/ Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Hình ảnh được xây dựng nên từ tình yêu và sự đoàn kết của dân tộc đã trở thành sức mạnh to lớn:

 Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

         Trên cơ sở của tình yêu thương và tình đoàn kết toàn dân, mỗi một con người đều cần có trách nhiệm đối với chặng đường phát triển của Đất Nước và vinh hoa của toàn dân tộc:

 Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

       Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đang trỗi dậy với những đóng góp của bao con người trong mọi thời kì. Ở không gian địa lý, “Những người vợ nhớ chồng góp nên núi Vọng phu/ cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”. Trải qua bao gian nan suốt mấy ngàn năm hình thành và dựng nước, chiến tranh li tán, nhân dân phải chịu những cuộc chia phôi đầy thương xót khiến người vợ chờ chồng đến mức hóa đá thành những ngọn núi Vọng Phu lịch sử. Trong cuộc sống và sự phát triển cũng có những cặp vợ chồng nghĩa nặng tình thâm để góp nên những vẻ đẹp về mặt tình cảm trong đời sống con người. Dưới cái nhìn của tác giả, mặt thiên nhiên địa lý không chỉ là tài sản quý báu của tạo hóa mà còn được hình thành nên từ cuộc đời và số phận của biết bao con người: những cặp vợ chồng, những học trò nghèo đến cả những con ngườ vô danh với cái tên mộc mạc :”ông Đốc, Bà Đen, Bà Điểm”. Năng lực tiếp nhận và cảm thụ thẩm mĩ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo dựng nên một Đất Nước với những chiến công của thời đại và từ đó có một sự liên kết khái quát :”và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi… dáng hình…lối sống ông cha”. Theo tác giả, những địa danh nổi tiếng trên mọi miền Tổ quốc đều do nhân dân tạo ra và đều được kết tinh từ sức sống và công sức của toàn dân, của những con người với khát vọng hòa bình, cuộc đời êm đẹp:”Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. Đó là công lao của những con người bình thường, vô danh nhưng mang nặng tình yêu quê hương dân tộc sâu sắc để tạo nên những chiến công lịch sử vang dội mọi thời.

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ.

        Đất Nước” được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương và tình đoàn kết gắn bó toàn dân. Thế nên, trong mỗi con người cần có trách nhiệm đối với Tổ quốc mình:”Em ơi em hãy nhìn rất xa”., nhìn về “bốn ngàn năm Đất Nước” để thấy những con người đang rực sôi nhiệt huyết, một lòng bảo vệ non sông. Tiếng gọi “em ơi” với giọng thơ ngọt ngào, tha thiết như một lời tâm sự, nhắn nhủ chân thành của bản thân nhà thơ dành cho thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Khi Đất Nước đang trong thời khắc hòa bình thì “người người lớp lớp” với những năm tháng “cần cù làm lụng”,họ làm ăn để trang trải cuộc sống và góp thêm sự giàu đẹp văn minh cho dân tộc. Những cặp từ láy được đưa vào thơ như thể hiện một trạng thái dồn dập, đông đảo bởi sự hiện diện của con người với những nét đẹp dân quê bình dị. Nhưng khi chiến tranh tràn vào trên đất Việt, họ lại mang một lòng yêu nước nồng nhiệt:”khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con”. Họ chia sẻ gánh nặng cho nhau, mỗi người một việc để góp công trong công cuộc bảo vệ Đất Nước. Nhưng “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”, đó là lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù giặc của người dân đất Việt. Giống như trong thời chiến tranh, chị Út Tịch đã từng nói:”giặc đến nhà còn cái lai quần cũng đánh”. Đó cũng là phẩm chất cao đẹp, can trường, đầy dũng cảm của người đàn bà Việt Nam mọi thời đại.

        Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh khiến người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của Đất Nước là một thực tế. Đất Nước còn là hình hài, là biểu tượng của lòng thành kính và biết ơn sâu sắc với những người đã gục ngã trong chiến tranh và lịch sử dựng nước, bảo vệ Đất Nước. Họ là những con người đã chết vì một lý tưởng cao đẹp, vì độc lập, tự do và hòa bình cho dân tộc.

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

          Với một “Đất Nước vẹn toàn qua mọi góc nhìn, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi tả hình ảnh Đất Nước trong thơ qua nhiều phương diện. Đến với phương diện bản sắc văn hóa, ta có thể hiểu chính nhân dân là người lưu trữ và bảo tồn bản sắc văn hóa đó cho dân tộc, cho Đất Nước.

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái.

         Vai trò của nhân dân trong việc giữ gìn văn hóa và lưu truyền văn hóa qua nhiều thế hệ đã là một nét đẹp mang tính truyền từ đời này sang đời khác. Chính những con người giản dị và yêu nước ấy đã giữ gìn trọng vẹn và truyền lại cho thế hệ sau những nét sống từ xa xưa để lưu lại đến tận ngày nay và mai sau. Họ là những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng đã làm nên một Đất Nước với lối sống thuần túy, giản đơn. Trong nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời, “họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”, cùng những phong tục tập quán từng vùng miền:”truyền lửa cho mỗi nhà”, “truyền giọng điệu”. Họ mang theo cả “tên  làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân” và “đắp đập be bờ” cho con cháu ngày sau hưởng lợi. Những con người ấy luôn sống một nét sống đẹp và bình dị:

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

          Lại thêm một sự lý giải đúng đắn cho định nghĩa “Đất Nước”. Những con người dù sống, dù chết nhưng trong họ vẫn luôn tràn đầy nhiệt huyết và mối thù giặc sâu sắc. Công việc và trách nhiệm của những con người ấy là “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại”. Đó là lòng yêu nước sâu nặng của những con người chân chất, thật thà mà vô cùng mộc mạc, đơn sơ. Những con người ấy mặc hoài sống chết, trái tim họ luôn chảy dòng nhiệt huyết về hai chữ “Đất Nước” mang nặng tiếng lòng nhân dân và sống mãi trong cuộc sống của con người qua mọi thời đại.

       Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

          Phải chăng, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa thật đúng đắn và sâu sắc, mang tầm cỡ lớn về sự khẳng định “Đất Nước là của nhân dân”. Quả thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của Đất Nước. Chính họ đã gây dựng và bảo vệ sự tồn vong của cả dân tộc qua bao đời. Tư tưởng của nhà thơ như một chân lý sáng giá về một nhận định rất đỗi đời thường nhưng mang tầm vóc lớn. Khi nói đến “Đất Nước của nhân dân”, tác giả còn mượn cả văn học dân gian để nhấn mạnh vẻ đẹp “Đất Nước của ca dao Thần thoại”. Có lẽ, từ những chiêm nghiệm từ nền Văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá những vẻ đẹp về phẩm chất và tâm hồn của cả dân tộc, của tính cách con người mọi thế hệ.

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu.

         Họ là những con người say đắm, ân tình, thủy chung “dạy anh  biết yêu em từ thuở trong nôi”, quý trọng nghĩa tình, ân huệ:”biết trả công cầm vàng những ngày lặn lội” và càng quyết liệt trong chiến đấu chống lại kẻ thù:”biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Ở cuối cùng đoạn thơ, nhà thơ lại vẽ lên một nét đẹp của hình ảnh dòng sông với điệu hò đượm tình, thắm nghĩa:

Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

          Như muốn kéo dài thêm giai điệu du dương, trầm bổng cùng cung bậc cảm xúc ngân nga của bản trường ca Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nên một bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống tâm hồn con người qua câu hát thân thương “gợi trăm màu trên trăm dáng sống xuôi”.

     Hình ảnh Đất Nước gần gũi được cảm nhận một cách mới mẻ và hết sức độc đáo. Bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cho tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” với âm điệu sâu lắng, trữ tình. Bằng giọng thơ mộc mạc, trữ tình, cảm xúc sâu lắng, thiết tha và vận dụng sáng tạo linh hoạt văn học dân gian cùng những kiến thức trên  nhiều lĩnh vực, nhiều phương diện. Bài thơ đã thật sự để lại dấu ấn trong lòng người đọc và thành công trong việc xây dựng hình tượng Đất Nước một cách “vẹn tron, to lớn”, khẳng định được vai trò và vị thế vô cùng quan trọng của Đất Nước đối với cuộc sống nhân dân và tình cảm trong mỗi con người.

Bùi Phương Thảo.

0