05/06/2017, 00:06

Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (Bài 6)

Hàn Mặc Tử đã có những phút giây chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng ...

Hàn Mặc Tử đã có những phút giây chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấp áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”


Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng vàng buổi bình minh. Cái “Nắng” làng cau nắng mới lên” sao gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:

“Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Thu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh”.


Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sánh lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

“Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng có thể hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét, màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường của chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” - khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông, với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”


Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ với người yêu cỏ thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống? Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sống như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:

“Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt, lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”


Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hóa thành dòng sông trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Ý thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng, vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

“Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”


Hay:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”


“Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời đất, là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng.
Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”


Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không chở kịp trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc dời ngắn ngủi. Vầng trăng không kịp về và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người còn đang sống và tiếp tục giấc mơ:

“Mơ khách đườngxa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


Trái, tim khao khát yêu thương, nhưng nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hy vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đấy tác giả thấy choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”


Câu thơ đã tả thực cảnh Huế. Huế - kinh thành sương khói. Trong màng sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ hỏi:

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mở đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và kết thúc là “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đoá hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.

0