21/02/2018, 09:44

Cảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương

– Bài làm Tú Xương được các độc giả biết đến là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, đã vượt hẳn lên trên về phương diện bao quát hiện thực rộng lớn cũng như về tài nghệ đả kích sắc sảo bậc thầy. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn các tác phẩm viết về đề tài người vợ và đề tài này cũng rất ...

– Bài làm

Tú Xương được các độc giả biết đến là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, đã vượt hẳn lên trên về phương diện bao quát hiện thực rộng lớn cũng như về tài nghệ đả kích sắc sảo bậc thầy. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn các tác phẩm viết về đề tài người vợ và đề tài này cũng rất được các độc giả quan tâm và đón nhận. “Thương vợ” là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất thuộc đề tài này.

Cuộc đời của ông ngắn ngủi, chỉ sống được 37 năm và con đường thi cử còn nhiều gian nan, phải thi rất nhiều lần mới đỗ Tú tài vì vậy hầu hết mọi việc trong gia đình đều do bà Tú lo. Thấu hiểu được sự vất vả của vợ, Tú Xương đã đưa vợ mình vào những trang thơ với tất cả niềm yêu thương và sự trân trọng. Cuộc đời của bà Tú tuy vất vả nhưng bà lại có được niềm hạnh phúc lớn lao mà không phải người vợ nào cũng có được.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”

Ở hai câu đề, chỉ bằng vài nét đơn sơ với những từ ngữ hết sức bình dị, Tú Xương đã khiến người đọc hình dung ra hình ảnh bà Tú một mình mang gánh nặng gia đình, xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ vừa tự họa nên hình ảnh của một người chồng tầm thường và vô dụng:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Người đọc đặc biệt ấn tượng bởi những từ ngữ mà Tú Xương dùng để khắc họa nên hình ảnh bà Tú: “quanh năm”, “mom sông”…Thời gian “quanh năm” có nghĩa là triền miên, suốt bốn mùa không được nghỉ ngơi. Còn “mom sông” là không gian nơi bà Tú buôn bán, chỉ là một thẻo đất cheo leo nhô ra mặt nước, chính cái không gian chênh vênh ấy càng làm cho hình ảnh bà Tú trở nên nhỏ bé và cô đơn hơn. Bà làm việc vất vả như vậy để nuôi “năm con với một chồng”, “chồng” được đặt ngang hàng với “năm con”, như vậy Tú Xương đã tự nhận mình là một đứa con đặc biệt vẫn cần được bà Tú chăm lo. Ta nhận thấy ông Tú như đang tự trách bản thân mình vô tích sự với vợ con, không giúp gì được cho bà Tú.

Đến hai câu thực, hình ảnh bà Tú càng hiện lên cụ thể hơn:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao, đưa vào câu thơ của mình một cách khéo léo để khắc họa nên hình ảnh của người đàn bà lam lũ, vất vả lặn lội đêm hôm để kiếm ăn và nuôi con. Đặc biệt hình ảnh thân cò trong khung cảnh “quãng vắng” lại càng tô đậm sự thui thủi cô đơn một mình của bà Tú. Người đọc dễ dàng nhận ra sự đối lập ở hai câu thơ này, câu trước gợi ra hình ảnh bà Tú nhỏ bé thì câu sau lại gợi ra một cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ, luôn chứa đựng sự cạnh tranh cùng những lo âu, nguy hiểm. Cũng như ông cha ta bao đời nay đã khuyên con: “Con ơi nhớ lấy câu này/ Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”.

Ở hai câu luận, Tú Xương miêu tả hình ảnh của bà Tú trong mối quan hệ với chồng và con, đồng thời bày tỏ lòng cảm phục đối với sự hi sinh hết mực của vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Đây như thể là một lời độc thoại nội tâm mà ông Tú muốn nói hộ bà Tú, nhưng có lẽ  là ông Tú tự thấy mình vô dụng nên nói thế chứ chắc bà Tú không nghĩ vậy, bà Tú thương ông vì cái kiếp “học tài thi phận” còn ông Tú thì tự thấy số phận của mình bạc bẽo nên mới viết ra như thế. Có thể câu thơ trước còn gây nhiều tranh cãi, nhưng đến câu thơ thứ hai “Năm nắng mười mưa dám quản công” thì hẳn là ông Tú đã nói đúng tấm lòng của vợ, nhà thơ sử dụng thành ngữ vừa nói lên được sự vất vả gian lao vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.

Hai câu kết là lời chửi, có thể người đọc sẽ nghĩ là của bà Tú nhưng thực ra là của ông Tú, ông chửi đời và chửi cả chính bản thân mình, tự trách mình là tầm thường, vô tích sự, không giúp gì được cho vợ con:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”

Hai câu như ẩn chứa một mối quan hệ sâu xa: Nếu không có thói đời bạc bẽo thì cũng đã không có sự hờ hững của người chồng đối với vợ, ngẫm lại ta mới thấy bà Tú mới thật là đáng trọng và đáng kính biết nhường nào.

Vậy là chỉ với tám câu thơ nhưng hình ảnh bà Tú đã được hiện lên hoàn chỉnh: một người vợ đảm đang, chịu khó, tháo vát sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì chồng, vì con. Hình ảnh của bà Tú là hình ảnh tiêu biểu của người vợ truyền thống Việt Nam với những nét đẹp đáng trân trọng.

– Gợi ý

I/Mở bài

– Tú Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đồng thời cũng là tác giả của những vần thơ trữ tình đằm thắm, thiết tha.

– “Thương vợ” là một sáng tác tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương.

– Bài thơ đã khắc họa chân dung bà Tú vất vả đảm đang, giàu đức hi sinh và bộc lộ sự cảm thông, lòng yêu thương trân trọng ngợi ca người vợ của nhà thơ.

II/Thân bài

1/ Giới thiệu chung

– Trong thơ trung đại Việt Nam, các nhà thơ –nhà nho ít khi viết về cuộc sống tình cảm đời tư của mình, càng hiếm khi viết về người vợ. Thơ văn xưa coi trọng mục đích giáo huấn, dùng văn thơ để dạy đời, tỏ chí “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, với những đề tài phổ biến như: chí làm trai, nợ công danh, chí kinh bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc …

– Cũng trong xã hội xưa, vị thế cảu người phụ nữ ít được coi trọng, thậm chí còn bị coi rẻ.

– Tú Xương thì khác. Ông có nhiều bài thơ viết về vợ với những câu đầy thương mến, hóm hỉnh:

“Có một cô lái, nuôi một thầy đồ,
Quần áo rách rưới, ăn uống xô bồ”

Đây là lời đáp của bà Tú khi được ông Tú hỏi về câu đối vừa mới viết:

“ Thưa rằng hay thực là hay,
Không hay sao lại đỗ ngay tú tài,
Xưa nay em vẫn chịu ngài”

– Trong một loạt bài thơ Tú Xương viết về vợ, Thương vợ được coi là tác phẩm tiêu biểu hơn cả. Bài thơ thể hiện cả hai mặt trong thơ Tú Xương, vừa ân tình vừa hóm hỉnh.

– Thương vợ được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng ngôn ngữ rất sinh đọng tự nhiên, mang đậm sắc thái dân gian, mang nét riêng độc đáo của thơ Tú Xương.

2/ Hai câu đề:

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

– Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên, dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú.

– Từ “quanh năm” diễn tả sự triền miên về thời gian, từ ngày này sang ngày khác, tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy, bất kể mưa nắng, sớm trưa. Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó, bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán”. Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt, lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi.

– Hai từ “mom sông” cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú, đó là nơi có thế đất hiểm trở, là doi đất nhô ra, ba bề là nước, khá chênh vênh nguy hiểm.

– Tú Xương đã quan sát, thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ. Bởi vậy, ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông, thương mến sâu lắng. Với người vợ, một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay.

– Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú. Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng”. Phải chăm sóc, nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi. Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng. Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp, thành ra ông chí khí uất. Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo. Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt “ con khinh bố”, “vợ chửi chồng”, bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời. Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc. Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính, khó tính. Ấy vậy mà bà Tú vẫn “ nuôi đủ”. Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ “nuôi đủ” này. Bà Tú thắt lưng buộc bụng, tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa, chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang, tài tử của ông Tú. Sự đảm đang, khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống, khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm.

– Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại, đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình. Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình.

3/ Hai câu thực

Lăn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

– Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất, đặc thù công việc cảu bà Tú. Cách đảo ngữ “ lặn lội thân cò”, “ eo séo mặt nước” tô đậm chân dung cực nhọc, lam lũ, bươn chải của bà.

– Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ “thân cò” trong ca dao để ví von với thân phận, cuộc đời người vợ của mình. Con cò trong ca dao cực khổ, bất hạnh vô cùng:

“ Cái cò lặn lội bờ sông –Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
“Cái cò đi đón cơn mưa – Tối tưm mù mịt ai đưa cò về”
“ Cái cò mà đi ăn đêm – Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

– Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả, lam lũ. Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ, gầy gò, đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú.

– Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường, đi làm qua những nơi “ quãng vắng”. Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời, sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào. Thế mới thâm thía câu ‘Buôn có bạn, bán có phường”. Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ.

– Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông, phải chịu những tiếng “eo sèo”, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả, có lườm nguyt chê bôi xô bồ. Đò đông gợi ra sự hiểm nguy, xô đẩy, chen chúc. Vậy là “ cô gái nhà dòng” vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn “ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua”, phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình.

– Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả, sự đảm đang của bà Tú. Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm, ái ngại, biết ơn, trân trọng.

4/ Hai câu luận

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

– Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ. Nhà thơ dùng nghệ thuật đối, các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa”, “ âu đành”, “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy.

– Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau. Theo cách hiểu dân gian, duyên là đieuf tốt đẹp, là sự hòa hợp tự nhiên, còn nợ là gánh nặng, là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải. Duyên là sự may mứn, còn nợ là sự rủi ro. Ở đây, khi lấy ông Tú, may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi, tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều.

– Dù vậy, bà coi đó là cái phận, cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình. Vì thế, bà cam chịu, chấp nhận, không kêu ca mà âm thầm chịu đựng. Bà sẵn sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất, bà dám “ quản công”, tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình.

– Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú. Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng, vượt lên. Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh – vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam?

5/ Hai câu kết.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

– Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi, để rủa chính thói đời bạc bẽo, trách cứ sự vô tích sự của mình.

– Thói đời là những nếp cư xử,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải. Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ, là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ. Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú, khiến ông ăn ở bạc với vợ, sống thiếu trách nhiệm, đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ. Như vậy, ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình.

– Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương. Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian “ cha mẹ” – một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc, gay gắt, quyết liệt, lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi. Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương.

– Câu thơ cuối cùng là một lời rủa. Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng. Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự, vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi.

– Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ. Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất, thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng.

III/ Kết bài.

– Thương vợ là bài thơ ngắn gọn, súc tích, có ngôn ngữ giản dị, giọng thp ân tình, hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu dức hi sinh vì chồng con, mang vẻ đẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam.

– Tác phẩm cũng bộc lộ sự cảm thông, trân trọng biết người vợ sâu sắc của nhà thơ Tú Xương.

– Đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương. 

0