21/02/2018, 09:44

Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan

– Bài làm 1 Trong nền văn học trung đại Việt Nam, ngoài những nhà thơ nam tiêu biểu làm nên sự phong phú, giàu có của nền văn học Việt Nam thì còn có sự góp mặt của hai nữ thi sĩ, đó là bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Hai nữ thi sĩ này là những cây bút xuất sắc, để lại ...

– Bài làm 1

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, ngoài những nhà thơ nam tiêu biểu làm nên sự phong phú, giàu có của nền văn học Việt Nam thì còn có sự góp mặt của hai nữ thi sĩ, đó là bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Hai nữ thi sĩ này là những cây bút xuất sắc, để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị. Nếu ở Hồ Xuân Hương ta luôn thấy được một cái tôi cá tính, sắc sảo khi đả kích, châm biếm trực diện đối với xã hội và những người của giai cấp thống trị thì Bà Huyện Thanh Quan lại mang một chuẩn mực, khuôn mẫu của một nữ sĩ tài hoa. Trong đó, bài thơ “Qua đèo ngang” là một tác phẩm điển hình cho sự nhẹ nhàng và mẫu mực trong thơ của bà.

“Qua đèo ngang” là bài thơ viết về tình yêu dành cho quê hương, đất nước cũng như sự dãi bày một cách chân thành, xúc động tâm trạng thương nhớ, u buồn của nhân vật trữ tình khi nhớ về quê hương của mình, mà ở đây chính là Bà Huyện Thanh Quan viết về mình. Theo dòng chảy xuôi của cảm xúc, Bà Huyện Thanh Quan đã đi từ khung cảnh thiên nhiên, đất trời – cái nhân tố tác động đến tâm trạng, ngọn nguồn khơi gợi nỗi nhớ trong con người xa quê. Qua khung cảnh đó, nhà thơ tiếp tục dãi bày tâm trạng thương nhớ cũng sự nỗi cô đơn, lạc lõng của mình giữa nơi đất khách, quê người.

“Bước tới đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa”

Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này khi đang trên đường vào Huế nhận chức “cung trung giáo tập” – tức là chức quan thực hiện nhiệm vụ dạy nghi lễ cho các phi tần và cung nữ. Đây là mệnh lệnh do nhà vua ban chiếu, vì vậy không thể từ chối mà chỉ có cách thực thi. Ta cũng có thể thấy nữ sĩ tài hoa này rất được trọng dụng, tin tưởng. Trở lại bài thơ, đây chính là khung cảnh, không gian trên đường Bà Huyện Thanh Quan đi nhận chức, “đèo ngang” là tên của một con đèo, cũng là nơi mà tác giả dừng chân nghỉ ngơi lấy sức, chuẩn bị cho cuộc hành trình tiếp theo. Ở đây, không gian của Đèo Ngang được nhà cảm nhận trong khung cảnh “chiều tà”, đây là thời khắc cuối cùng của một ngày, là ranh giới thời gian giữa ngày và đêm.

Nếu ban ngày nhịp sống hối hả, khẩn trương thì khi chiều tà thì cái nhịp sống ấy dường như ngưng đọng lại để nhường không gian cho sự nghỉ ngơi. Chiều tà cũng là thời khắc mà những con người trong gia đình đoàn tụ, xum vầy. Trong không gian rộng, vắng của chiều tà, trong thời khắc gợi nhắc về sự đoàn viên của gia đình ấy, con người xa quê như Bà Huyện Thanh Quan tất yếu cảm nhận được sự hoang vắng trong khung cảnh, cô đơn trong tâm trạng: “Cỏ cây chen đá lá xen hoa”. Nhà thơ đã hiệp vần các từ ngữ như: “đá”, “lá”, “hoa” để diễn tả sự um tùm, khăng khít của những cỏ cây hoa lá, từ đó cũng gợi ra sâu sắc cảm giác rợn ngợp, hoang sơ của không gian.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Điểm nhìn của nữ thi sĩ không chỉ dừng lại ở cảnh vật, mênh không gian mênh mông, choáng ngợp nhưng lại vắng vẻ, đìu hiu ấy. Cái nhìn của nhà thơ còn hướng đến những con người trong nhịp điệu của công việc, của cuộc sống. Đó chính là hình dáng “lom khom” của những người tiều phu, lom khom diễn tả được cái tư thế cần mẫn, chăm chỉ của những người tiều phu với công việc của mình. Trái ngược với không gian rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang, cũng là nơi nhà thơ đứng, thì không gian mà nhà thơ hướng tầm mắt đến, đó chính là không gian nhỏ hẹp của những con người, của những mái nhà “lác đác”. Từ láy “lác đác” diễn tả được khoảng cách thưa thớt của những mái nhà bên sông. Tuy nhiên, nếu cái không gian rợn ngợp  của thiên nhiên khiến cho con người cảm thấy nỗi trống vắng, cô đơn thì không gian nhỏ, hẹp của con người lại khơi dậy mạnh mẽ nỗi nhớ gia đình, quê hương của tác giả.

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đến câu thơ này, nỗi lòng của nhà thơ được trải ra đầy tha thiết, đối tượng của nỗi nhớ ấy cũng được xác định, đó là nỗi nhớ quê hương “quốc quốc”, và nỗi nhớ gia đình nhỏ của mình “gia gia”. Ở trong câu thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”, Bà Huyện Thanh Quan đã mượn một điển tích của Trung Quốc, đó là vua Thục bị mất nước, khi chết hóa thành con cuốc và đêm ngày cất tiếng kêu não nề “cuốc cuốc”. Mượn điển tích cổ này để nói về tâm trạng của mình, nhà thơ đã lột tả được thành công nỗi nhớ thương  da diết của mình, nỗi niềm hoài tưởng về quá khứ tươi đẹp của đất nước. Từ nỗi nhớ đất nước, quê hương, nhà thơ hướng nỗi nhớ của mình đến một đối tượng cụ thể hơn nữa, da diết hơn nữa, đó là nỗi nhớ nhà “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Ở đây, Bà Huyện Thanh Quan đã dùng cách chơi chữ, dùng những hình ảnh, từ ngữ ngỡ như không liên quan nhưng lại gợi nhắc được sâu sắc tâm trạng thực tế của chính nhà thơ. Không gian cô quạnh, lòng người rợn ngợp nỗi nhớ thương, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, nỗi nhớ ấy của nhà thơ không thể dãi bày cùng ai, chỉ biết ấp ôm cho chính mình:

“Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta”

Trong cuộc hành trình dài, nhà thơ thể hiện sự lạc quan trong tinh thần, dù là nơi đất khách nhưng với tâm hồn nhạy cảm của một người thi sĩ tài năng, dù không gian có rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang thì nhà thơ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp riêng của địa danh này, cũng như non sông gấm vóc của quê hương “Dừng chân đứng lại trời non nước”. Hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận được cái tươi đpẹ của non nước song nhà thơ vẫn chất chồng những tâm trạng riêng, tuy nhiên những nỗi niềm này nhà thơ chỉ giữ cho riêng mình: “Một mảnh tình riêng ta với ta”

Bằng tình cảm chân thực mà da diết, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện một cách xúc động tình yêu quê hương, gia đình của mình, đồng thời cũng thể hiện một tâm hồn thơ chất chứa những nỗi buồn da diết, mà nỗi buồn ấy không được nhà thơ thể hiện một cách thái quá, khoa trương mà cứ nhẹ nhàng, da diết ấp ủ cho chính mình. Nhưng chính sự dung dị, nhẹ nhàng ấy lại gợi ra bao nỗi xúc động cho người đọc.

– Bài làm 2

Bà huyện Thanh Quan là một nhà thơ tài năng. Thơ của bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. “Qua đèo Ngang” là một trong những bài thơ như thế.

Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người. Vì thế bài thơ tả cảnh Đèo Ngang vào thời điểm ấy đồng thời nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách – nữ sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “bước tới Đèo Ngang”, đứng dưới chân con đèo “đệ nhất hùng quan” này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm “bóng xế tà”:

“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà”

Đó là lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã “tà”, đã nghiêng, đã chênh chênh. Trời sắp tối. Âm “tà” cũng gợi buồn thấm thía.

Câu  thơ thứ hai tả cảnh sắc ở đèo Ngang với cỏ cây, lá, hoa… đá:

“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Hai vế tiểu đối, điệp ngữ “chen”, vần lưng: “đá” – “lá”, vần chân: “tà” – “hoa” làm cho câu thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự  ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước. Nơi ấy chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ cây, hoa lá phải “chen” với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, hoang dại đến nao lòng.

Hai câu thơ tiếp theo, nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

Điểm nhìn của tác giả đã thay đổi: đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có “tiều vài chú”. Hoạt động là “lom khom” vất vả đang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ (ngư, tiều, canh, mục) nhưng rất thần tình, tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt, lác đác. Cũng là cảnh hoang vắng, heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.

Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng: chim gia gia, chim cuốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm “con cuốc cuốc” và “cái gia gia” tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động (tiếng chim rừng) để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ vận dụng rất tài tình:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Nghe tiếng chim rừng mà “nhớ nước đau lòng”, mà “thương nhà mỏi miệng”, nỗi buồn thấm thía vào chín tầng sâu cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha, trầm lắng. Trong lòng người lữ khách nỗi “nhớ nước”, nhí kinh kỳ Thăng Long, nhớ nhà, nhí chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết!

Hai câu thơ cuối bài tâm trang nhớ quê, nhớ nhà càng bộc lộ rõ:

“Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Bốn chữ “dừng chân đứng lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang: “Trời non nước”; nhìn xa, nhìn gần, nhìn cao, nhìn sâu, nhìn bèn phía… rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại “một mảnh tình riêng”. Lấy cái bao la, mênh mông, vô hạn của vũ trụ, của “trời non nước” tương phản với cái nhỏ bé của “mảnh tình riêng”, của “ta” với “ta” đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khác khi đứng trên cảnh Đèo Ngang lúc ngày tàn.

Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật tuyệt bút. Thế giới thiên nhiên kỳ thú của Đèo Ngang như hiển hiện qua từng dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác. Giọng thơ du dương, réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mỹ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Vì thế bài thơ “Qua Đèo Ngang” là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi.

– Bài làm 3

Trong dòng văn thơ cổ Việt Nam có hai nữ thi sĩ được nhiều người biết đến đó là Hồ Xuân Hương và bà Huyện Thanh Quan. Nếu như thơ văn của Hồ Xuân Hương sắc sảo,, góc cạnh thì phong cách thơ của bà Huyện Thanh Quan lại trầm lắng, sâu kín, hoài cảm

… Chẳng vậy mà khi đọc bài thơ “Qua Đèo Ngang ” người đọc có thể thấu hiếu bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu sắc, kín đáo của nhà thơ.

Nhà  thơ  mở đầu bài thơ  bằng  việc tả cảnh đèo nhìn từ trên cao. Khi bóng chiều đã xế, có đá núi, cây rừng, có bóng tiều phu di động, có những mái nhà ven sông… mà sao heo hút, đìu hiu đến nao lòng.

Bước tới đèo ngang bóng xế tà 
Cỏ cây chen đá lá chen hoa…

 Lom khom dưới núi tiều vài chú
 Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Cảnh  gợi lên trong tâm hồn tình cảm của con người giọt buồn, giọt nhớ …. Trời đã xế chiều, bóng đã dần tàn … cảnh tượng ấy rất phù hợp với tâm trạng của bà Huyện Thanh Quan lúc này.. Đó là  nỗi u hoài, gợi buồn trước sự đổi thay của xã hội. Thế nên nhà thơ Nguyễn Du cũng đã nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng gieo sầu 
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”

Cảnh vật ở đây cũng thật sinh động đấy: Có cả cỏ với cây điểm thêm lá và hoa nhưng tất cả lại được hiển hiện trong hoạt động “chen chúc”. Đứng trước cảnh tượng đó khiến cho con người càng gợi lên sự hoang mang, khiếp hãi. Cảnh vật thì bao la làm cho tâm hồn con người đã hiu quạnh, đơn chiếc tăng thêm sự cô đơn, vắng lặng gần như hoàn toàn trống trãi. Nhà thơ  quan sát tổng thể cảnh nơi đây. Con người xuất  hiện. Nhưng con người càng tô đậm thêm sự buồn vắng. Chính cảnh tượng ấy càng tạo cho nhà thơ những  cảm giác hiu quạnh, tẻ nhạt, trống trải.

Tức cảnh sinh tình:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Dừng chân đứng lại trời non nước 
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Nỗi nhớ thương, đau đớn đến tận cùng của lòng người với nhà, với nước, với thân phận cô đơn của mình lại được cộng hưởng bởi những âm vang trong tiếng kêu khắc khoải không dứt của chim cuốc giữa đỉnh cao chon von, nhìn lên chỉ thấy trời cao, nhìn xa chỉ thấy mây nước vời vợi…

Nhà thơ đã lắng nghe âm thanh của cảnh Đèo Ngang. Nhưng đó không phải là tiếng kêu của loài chim cuốc, chim đa đa. Mà nói  cho đúng đó chính là tiếng lòng của nhà thơ. Nhà thơ mượn hình ảnh loài chim cuốc muốn gợi sự tiếc nuối về quá khứ, triều đại nhà Lê thời kì vàng son, hưng thịnh nay không còn nữa. Gia tộc của nhà thơ vốn trung thành với nhà Lê nhưng không thể nào theo một  chế độ đã thối nát. Vả lại đây là lần đầu tiên có lẽ nhà thơ xa nhà nên “cái gia gia” gợi nỗi thủy chung, thương nhớ quê nhà. Cảnh vật vắng lặng, đơn chiếc, xót xa, buồn bã. Càng làm cho nhà thơ mỗi lúc nỗi buồn hoài cảm càng tăng.

Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Cả thân xác lẫn tâm linh của nhà thơ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thơ cảm nhận thế giới thiên nhiên nơi đây thật rộng khoáng, bao la. Trong khi đó, con người chỉ là “một mảnh tình riêng”. Con người mang tâm trạng cô đơn, trống vắng hoàn toàn. Thiên  nhiên với con người hoàn toàn đối lập với nhau càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn, phủ nhận thực tại của nhà thơ.

“Qua Đèo Ngang” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Với cách sữ dụng ngôn từ trang nhã nhưng rất điêu luyện đã giúp người đọc thấy được bức tranh vịnh cảnh ngụ tình sâu kín. Cảnh Đèo Ngang thật buồn vắng phù hợp với tâm trạng con người cô đơn hoài cảm. Từ bài thơ, cảm thụ tâm cảm của nhà thơ, ta càng cảm thông nỗi lòng của tác giả và kính phục tài năng thi ca của bà Huyện Thanh Quan. 

Từ khóa tìm kiếm nhiều:

  • phát biểu cảm nghĩ về bài thơ qua đèo ngang
  • bieu cam qua deo ngang
  • biểu cảm qua đèo ngang
  • phát biểu cảm nghĩ về văn bản qua đèo ngang
  • Phát biểu cảm nghĩ của em về tâm trang nhân vật trữ tình trong bài thơQua Đèo Ngang
0