07/06/2018, 14:31

Cách chơi bài chòi ở Quảng Nam (Tôn Thất Hướng)

Ở các làng quê miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng trong ngày lễ tết trò chơi dân gian thường có các trò bắt vịt bắt chạch đập chum leo cây chuối... hoặc các trò diễn như sắc bùa súc sắc xúc xẻ nhưng hấp dẫn nhất vẫn là trò chơi bài chòi. Vào dịp hội hè trong làng rộn ràng hẳn lên không khí vui tươi người làng dựng chòi kê ván hoặc nếu không có chòi thì kê ghế ngồi để chuẩn bị chơi bài chòi.

Xưa kia các gia đình khá giả thì chơi tứ sắc tổ tôm mạt chược xăm hường... Và sau này khi văn hóa phương tây vào Việt Nam thì có các trò chơi dựa theo 52 lá bài tây như: binh xập xám xì tẩy xì lát cát tê phỏm tú lơ khơ... là trò chơi dành cho người giàu có nhiều tiền lắm của. Cũng là trò chơi bài bạc trong dịp hội hè nhưng bài chòi dành cho đại đa số giới bình dân rẻ tiền có xu hướng nghiêng về tính cộng đồng hội hè đình đám và giải trí dân gian khác với các loại chơi bài trên. Chính vì vậy ở Quảng Nam nơi được coi là đất nông thôn dân dã thì dân gian cũng tạo cho mình thú chơi riêng nhưng hết sức độc đáo mang phong vị làng quê đậm chất văn hóa nông nghiệp. Tục chơi bài chòi tương tự như chơi tổ tôm điếm ở miền Bắc. Bộ bài chòi còn gọi là bộ bài tới thoạt đầu dùng để chơi với 6 người trong nhà rồi dần dần mới lan ra và chuyển sang lối chơi nơi công cộng nơi đình làng sân bãi.

Theo các tài liệu nghiên cứu văn hóa dân gian nếu đúng thể thức thì khi chơi bài chòi người ta dựng 11 chiếc chòi cao từ 2 đến 3 thước bên trái có 5 chòi và bên phải có 5 chòi gọi là chòi con và 1 chòi ở chính giữa là chòi trung tâm hay còn gọi là chòi cái. Thông thường dân gian chơi bài chòi cốt để giải trí để nghe anh hiệu gõ mõ hô bài chòi diễn xướng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Ở đây âm nhạc là nhịp gõ nhịp trống kết hợp nhuần nhuyễn với lời hô hát. Lời hô mang nghĩa văn chương bình dân mộc mạc hình mỗi con bài thì mang dáng vẻ họa tiết cách điệu theo phong cách dân gian.

Chơi bài chòi thực hiện theo mỗi chòi con (10 chòi) được phát 3 con bài trên thân bài có tên con bài tất cả là 30 con bài (gọi là bài nọc). Ở chòi cái có một cái ống tre lớn dùng để đựng bài cái. Khi trống thúc liên hồi báo hiệu hội bài chòi bắt đầu những người đánh bài chòi vào chòi con tay cầm 3 con bài do họ tự chọn lựa ngẫu nhiên. Anh hiệu (người hô) bước ra ống thẻ cái xóc đi xóc lại rồi chậm rãi rút từng con bài. Mỗi lần rút bài anh hiệu hô câu thai tên con bài. Chòi nào có đúng quân bài đó thì người chơi cầm mõ gõ lên ba tiếng cắc cắc cắc hoặc xướng to lên "ăn rồi" thì anh hiệu sẽ sai ngưòi phụ việc đến trao cho một cây cờ đuôi nheo nhỏ. Đến lúc chòi con nào ăn đủ 3 con (được 3 cờ) thì hô "tới" và gõ một hồi mõ kéo dài lúc này trống tum trống cán ở chòi cái đánh vang lên báo hiệu có người thắng/tới. Thông thường cuộc chơi từ 8 đến 10 hiệp là hết một ván bài chòi lưu lại một hiệp/ ván cho ban tổ chức dùng để chi phí và sau đó tiếp tục kẻ bước xuống người bước lên chòi chơi ván khác.

Bộ bài tới thường được in bán ở các chợ làng miền quê vào dịp trước Tết. Bài được in bằng bảng khắc gỗ trên giấy dó. Giấy bản lá bài được phủ qua một lớp điệp rồi được bồi thêm một lớp giấy cứng mặt sau lá bài được sơn phết màu đỏ huyết dụ màu xanh lá chuối hay xanh xám. Xưa kia bộ bài tới kia được in tại làng Sình còn có tên chữ là làng Lại Ân (huyện Phú Vang Thừa Thiên Huế) nơi từ thế kỷ XV người dân từ Thanh - Nghệ vào khai phá vùng đất Thuận Hóa đã đem theo nghề truyền thống làm tranh thờ dân gian và tổ chức sản xuất tại làng có quy mô nổi tiếng từ thế kỷ XVII -XVI. Kết hợp với việc làm tranh thờ từ khoảng ngày 10 đến 29 tháng Chạp người thợ thủ công làm thêm bộ bài tới chở thuyền về bán cho chợ Đông Ba rồi từ đó đưa đi các nơi ở miền Trung. Về sau do số lượng ít không đủ cung cấp nên một số nhà buôn Hoa kiều thấy bán chạy và có lời nên họ làm số lượng nhiều (vẫn in mộc bản) ở vùng Thanh Hà - Gia Hội (Huế) và Hội An (Quảng Nam). Như vậy bộ bài tới có thể có nguồn gốc manh nha từ vùng Thanh - Nghệ về sau khi cư dân Việt mở cõi tiến về phía Nam kết hợp với yếu tố văn hóa bản địa Champa để tạo nên sản phẩm trò chơi giải trí này. Dần dần dân gian đặt thêm câu thai (câu hô) và chuyển sang lối chơi tập thể của cộng đồng làng xã.

Bài chòi là sản phẩm văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt cả hình thức lẫn nội dung có sức cuốn hút người dân quê vào dịp Tết hội hè. Bộ bài tới gồm 3 pho: văn vạn sách. Mỗi pho 9 cặp. Pho văn: nhất gối nhì bánh tam bụng tứ tượng ngũ rún sáu miểng bảy liễu tám miểng chín gan. Pho vạn có: nhất trò nhì bí tam quăng tứ ghế ngũ trợt lục chạng thất vung bát bồng cửu chùa. Pho sách có: nhất gối nhì gánh tam quăng tứ xách ngũ dụm sáu bường bảy thưa tám dây cửu điều. Ngoài 3 pho (9 x 3 = 27 cặp) còn có 3 cặp yêu: một cặp ông ầm một cặp thế tửmột cặp bạch huê. Lá bài pho văn vạn sách in màu đen riêng ba cặp yêu có đóng thêm dấu đỏ.

Về tên con bài khi gọi lên đủ làm cho người ta mỉm cười nó vừa ngô nghê vừa ngồ ngộ liên tưởng đến sự phồn thực ước muốn con đàn cháu đống. Đó là những tên gọi nôm na tinh nghịch tiếng Nôm có tiếng Hán có người chơi bao giờ cũng bật lên tiếng cười sảng khoái và khi vào hội chơi bao giờ cũng chọc ghẹo nhau bằng tiếng lóng gợi lên những vật những việc tuy tục nhưng thanh mà người bình dân hay nói trong đời thường như: bảy giày bảy sưa (bảy liễu) ba gà ba bụng nọc đượng (nhất nọc) năm rún (ngũ rún) ông ầm bạch tuyết (bạch huê) ... Tên gọi đã mang tính hài hước còn về hình vẽ con bài thì ẩn dụ nhiều ý nghĩa. Các nhà nghiên cứu folklore cho rằng hình con bài tới là cách thức thể hiện các họa tiết thuộc trường phái hội họa nguyên thủy mang tính siêu thực nó tổng hợp nhiều yếu tố từ hình thể đến trừu tượng hóa sự vật hay biểu hiện sự vật mô phỏng mang tính ước lệ. Còn một số người có tư duy bay bổng khi nhìn con bài tới lại liên tưởng đến các hình hoa văn kỷ hà trên ngôi mộ cổ ở Trung Hoa Ai Cập... đến các hình tượng nghệ thuật điêu khắc phù điêu Champa hay các họa tiết của tộc người Ê đê Gia rai ở Tây Nguyên. Nếu xét về góc độ dân tộc học thì đây là một vấn đề rất lý thú cần được giải mã.

Người ta chơi bài chòi không chỉ tìm thú vui giải trí trong ba ngày Tết mà còn muốn nghe đến "nghiền" lối hô bài chòi độc đáo là phần cốt lõi thu hút người chơi và hấp dẫn nhất. Anh hiệu hô bài chòi phải là người thuộc hết các bài hô truyền khẩu trong dân gian cộng với tài năng ứng tác đôi lúc để tăng thêm sinh động thì phải biết "chế thêm" cho hay nhưng phải đúng bài đúng bản cốt nội dung lời hô lúc nào cũng đầy bất ngờ hợp với mạch cộng cảm của cuộc chơi. Từ chỗ lẽ ra chỉ hô tên con bài anh hiệu biến cách phá thể bằng hô một hay nhiều câu lục bát ứng tác có mang tên con bài. Và để gây sự chú ý cho người chơi bao giờ anh hiệu cũng mở đầu bằng câu rao "Quờ mà quớ quơ quớ quơ" và kết thúc là "Quơ là ... (tên con bài)" đậm đặc chất giọng phương ngữ Quảng Nam.

Chẳng hạn như gặp con Tam quăn thì anh hiệu hô:

Quờ nhằm thì vợ chữa ba bốn tháng rày

Thì thổi lửa quăn là quăn rậu quăn

Gặp con Nhì nghèo thì:

Một anh để em ra

Hai thì anh để em ra

Về em buôn em bán

Trả nợ bánh tráng.

Trả nợ bánh xèo

Còn thì dư em trả nợ thịt heo

Anh đừng lầm em nữa kẻo mang thì nghèo

Mang thì nghèo vì em.

Nghèo quớ là nhì nghèo

Gặp con Nhất vạn (Nhứt trò) thì:

Đi đâu ôm tráp đi hoài

Cử nhân không thấy Tú tài cũng không

Quớ là con học trò

Người chơi có cảm giác vui nhất khi anh hiệu hô con bài Bạch huê (có hình tượng âm vật - yoni của Chàm) và quân Nọc đượng (có hình tượng dương vật - linga của người Chàm) với ý tứ đố tục giảng thanh của văn hóa dân gian:

Hoa phi đào phi cúc

Sắc phi lục phi hồng

Trơ như đá vững như đồng

Ai xô không ngã ngọn gió lồng không xao

Mỉa mai cụm liễu cửa đào

Ong qua muốn đậu bướm vào muốn bu

Bốn mùa đông hạ xuân thu

Khi búp khi nở khi xù khi tươi

Chúa xuân ngó thấy mỉm cười

Sắc hay vương vấn mấy người tài danh

Có bông có cuống không cành

Ở trong có nụ bốn vành có tua

Nhà dân cho chí nhà vua

Ai ai có của cũng mua để dành

Tử tôn do thử nhi sanh

Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi

Câu hô con Nhứt nọc (Nọc thược):

Tiếc công mẹ đẻ cha nuôi

Thân con không giữ họ lùi thâu đêm

Đàn ông có một cái nêm

Đàn bà nứt nhụy lại thêm mẻ đèn

Đàn bà sáng rực ao sen

Đàn ông giữ của nọc chèn hai bên

Con Nhì bí thì hô:

Còn duyên làm cách làm kiêu

Hết duyên bí thúi bầu thiu ai thèm

Con Ba bánh thì hô:

Vợ lớn đánh vợ nhỏ

Vợ nhỏ chạy ra cửa ngõ ngẩng cổ kêu trời

Ối anh ơi! Nhất phu lưỡng phụ ở đời đặng đâu ?

Riêng con Ba gà thì lại có lời hô có vẻ nghịch ngợm nhưng câu kết lại có lý có tình:

Chiều chiều con quạ lợp nhà

Con cu chẻ lạt con gà đưa tranh

Ai làm cho bén duyên anh

Cho mây lấy núi cho trăng thanh lấy gió ngàn

Gặp con Ngủ trưa thì dùng ý phê phán để hô:

Làm thân con gái chẳng lo

Ngủ trưa đứng buổi dậy đo mặt trời

Quần áo thì rách tả tơi

Lấy rơm mà túm mỗi nơi một đùm

Nếu gặp con Sáu hột (còn gọi là Sáu tiền) thì hô:

Sông bao nhiêu nước

Em bấy nhiêu tình

Lụy rơi hột hột như bình chích nghiêng

Gặp con Chín cu thì dùng lời hô:

Tiếc công bỏ én nuôi cu

Cu ăn cu lớn cu gù cu bay

Cu say mũ cả áo dài

Cu chê nhà dột phụ hoài duyên em

Và tục nhất là khi gặp con Bạch huê thì lời hô như chỉ thẳng "cái ấy":

Nghèo mà làm bạn với giàu

Ngồi xuống đứng dậy có đau cái...

Lời hô hát bài chòi được truyền khẩu trong dân gian từ đời này qua đời khác nó phản ánh tư duy thẩm mỹ bình dân của cư dân nông nghiệp. Sau này cũng chính từ dân gian đúc kết lại để ra đời các làn điệu dân ca Nam Trung Bộ như: xuân nữ xàng xê cổ bản hò Quảng... cộng với ảnh hưởng của lối hát lối nói tuồng mà sau này hình thành một bộ môn nghệ thuật sân khấu mới gọi là Kịch hát bài chòi rất độc đáo. Đây chính là nét đặc sắc nhất là "phần hồn" trong tổng thể giá trị văn hóa phi vật thể ở đất Quảng mà đi đâu bao giờ cũng khó quên được.

Tuy các tỉnh Trung Bộ từ Quảng Trị đến Phú Yên mỗi dịp Tết hay lễ hội đều có chơi bài chòi nhưng bài chòi Quảng Nam có quy mô lớn hơn thông thường làm 10 chòi nên người chơi đông hơn. Hiện nay ở khắp các làng xã như Duy Xuyên Điện Bàn Đại Lộc Núi Thành Tam Kỳ Quế Sơn... vào dịp lễ tết vẫn không thể thiếu bài chòi. Đặc biệt là bài chòi Hội An đã từng có mặt tại nhiều lễ hội ở các địa phương trong cả nước từ Nam đến Bắc.

Với những giá trị đặc sắc văn hóa hy vọng bài chòi Quảng Nam sẽ được quan tâm hơn nữa để bảo tồn gìn giữ như Ca trù Quan họ Nhã nhạc Huế Cồng chiêng Tây Nguyên... bởi vì bài chòi là trò diễn tổng hợp của nhiều loại hình văn hóa dân gian độc đáo của ông cha xưa còn lại đến ngày nay ở Quảng Nam và miền Trung.

0