25/05/2017, 00:49

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Văn mẫu lớp 12

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Huế Nhắc đến hình tượng người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp không ai không nhớ đến ...

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Văn mẫu lớp 12 4.8 (96%) 380 votes Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Huế Nhắc đến hình tượng người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp không ai không nhớ đến Tây Tiến của Quang Dũng. Với tạo hình vừa chân thực vừa lãng mạn, ...

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Huế

Nhắc đến hình tượng người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp không ai không nhớ đến Tây Tiến của Quang Dũng. Với tạo hình vừa chân thực vừa lãng mạn, diễn tả đặc sắc điều kiện thiếu thốn của cuốc đấu tranh và cảnh vật thiên nhiên nơi miền Tây hoang sơ kì vĩ, "Tây Tiến" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu trong thời kỳ này và còn giá trị đến mãi ngày nay.

Bước vào bài thơ là sự nhớ thương, nỗi vất vả của người lính. Cái hay của tác giả đó chính là mượn hình ảnh "Sông Mã" để diễn tả nỗi nhớ của mình. "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi – Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi". Từ láy "chơi vơi" vừa tạo âm hưởng cho câu thơ, vừa tạo sự ám ảnh vang vọng trong lòng người đọc. Nhà thơ đã tạo ngay được ấn tượng đối với người đọc. Chặng đường hành quân đầy gian khổ được tác giả gắn liền với các địa danh, những vùng đất xa xôi hẻo lánh, sự hoanh sơ bí hiểm của rừng thiêng nước độc. Nhưng vượt lên trên cuộc hành quân khó khăn gian khổ ấy vẫn là tư thế người chiến sĩ mang quyết tâm cao. Một hình ảnh đẹp về người lính được viết thêm: "súng ngửi trời". Tiếp xúc với hình ảnh nhân hóa mới này ta liên tưởng đến Chính Hữu với "đầu súng trăng treo".

Cái độc đáo của bài thơ này còn thể hiện ở cái nhìn của Quang Dũng. Ông dám nhìn thẳng vào sự thật mà không né tránh, đó là sự hi sinh trên chiến trường. Trong bài thơ cũng rất nhiều lần, tác giả nói về vấn đề này. Nhưng ông không lấy đó để làm nhụt chí chiến đấu của chiến sĩ đồng bào ta mà lấy đó để khẳng định lòng quyết tử chi Tổ quốc quyết sinh của họ. Từ "gục lên súng mũ bỏ quên đời" đến "rải rác biên cương mồ viễn xứ" hay "áo bào thay chiếu anh về đất". Tất cả chỉ nhằm chỉ thẳng vào hiện thực đó là cái chết luôn cận kề. Nhưng cái chết ấy không làm cho chiến sĩ của ta run sợ, họ vẫn "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Không những thế họ còn lạc quan, yêu đời, hào hoa. Trong điệu múa tiếng khèn cùng với các cô gái Thái xinh đẹp trong xiêm áo, nguồ lính vẫn vui hết mình, vẫn rung động trước những vẻ đẹp mà thiên nhiên, tạo hóa đã ban tặng. Họ vẫn rung động trước vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng của núi rừng, sông nước miền Tây.

Lòng quyết tâm của người lính Tây Tiến cũng là điểm mấu chốt của tác phẩm. Trước muôn vàn khó khăn thiếu thốn, trong cả bệnh tật lẫn cái chết liền kề, người lính vẫn toát lên vẻ oai hùng, quyết tâm của họ. Họ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho quê hương đất nước. Họ dám chết và coi thường cái chết. Với lời hẹn ước: "Tây Tiến người đi không hẹn ước" sẽ không có ngày trở lại nếu sự nghiệp không thành một lần nữa khẳng định lại quyết tâm cao độ của người lính.

Tây Tiến giờ đã xa cả về không gian và thời gian, nhưng nhà thơ, hồn thơ ấy vẫn vương vẫn mảnh đất Tây Tiến vào xuân. "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy – Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".

Khép lại bài thơ, "Tây Tiến" vẫn đọng lại trong lòng nhiều ấn tượng, nhiều cảm xúc. Không chỉ đơn thuần là miêu tả chân dung người lính Tây Tiến, thiên nhiên cảnh vật nơi đây mà tác phẩm còn đong đầy cảm xúc của tác giả. Một nỗi nhớ về đồng đội, về thiên nhiên con người, nỗi nhớ ấy cứ "chơi vơi" lửng lơ tring lòng cũng khiến người đọc dư âm vang vọng mãi.

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 2

I. MỞ BÀI

   – Tây Tiến là lên một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào – Việt và tiêu hao lực lượng Pháp ở miền Tây Bắc bộ. Năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, viết bài Tây Tiến, một trong những tác phẩm nổi tiếng mà Trần Lê Văn đã nhận xét: Bài thơ Tây Tiến…"

II. THÂN BÀI

1.  Bài thơ Tây Tiến có phảng phât những nét buôn, nét đau

   a)  Nét buồn

   – Tây Tiến phác hoạ một cuộc hành quân dài ngày giữa núi rừng hiểm trở. Mở đầu bài thơ, ẩn hiện sau lớp sương mù dày đặc của núi rừng là hình ảnh một đoàn quân mệl mỏi:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

 ……Anh bạn dãi dầu không bước nữa.                                                                                                                

   – Biết bao gian nan thử thách đón chờ đoàn quân Tây Tiến, bất cứ nơi nào, lúc nào cũng có thể làm cho người ta chùn bước.

   Đó là cái hiểm trở của con đường hành quân:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

   Đó là oai linh của rừng thiêng:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

   Đó là cảnh thú giữ rình rập:

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người,

   b) Nét đau

   – Bệnh tật do lam sơn chướng khí:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

   "Hồi ấy ở rừng, sốt rét hoành hành dữ. Đánh trận, tử vong ít, sốt rét, tử vong nhiều” (Trần Lê Văn). Cho nên đoàn binh không mọc tóc và quân xanh màu y vì màu da của chiến sĩ xanh lướt và tóc bị rụng do sốt rét rừng hành hạ.

   – Đó là sự đánh đổi quãng đời tuổi trẻ tươi đẹp cho tổ quốc trường tồn:

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

   –  Đó là sự hi sinh:

Áo bào thay chiếu anh về đất,

   Nếu không có được một lòng yêu nước thiết tha, một ý chí kiên cường, người chiến sĩ Tây Tiến có thể ngả lòng, bỏ cuộc. Nhưng trái lại, họ đối mặt, đương đầu với mọi gian khổ, thử thách, bệnh tật, chết chóc và vượt lên tất cả với hào khí ngất trời:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

2. Nhưng đó là cái buồn đau bi tráng, không phải bi luỵ

   a) Nét đẹp

   – Sau một cuộc hành quân thật mệt mỏi là hình ảnh:

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

   –  Núi đèo cao ngất hiểm trở, nhưng đến đỉnh cao, người chiến sĩ say sưa phóng tầm mắt muôn xa, ngắm nhìn cảnh vật mờ ảo dưới làn mưa rừng đầy quyến rũ:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

   – Núi rừng thật dữ dằn, chiều chiều oai linh thác gầm thét, đêm đến Mường Hịch cọp trêu người, nhưng những sản vật của vùng cao đã mạng lại mang hương vị ngọt ngào, nồng ấm.

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.   

Và những đêm liên hoan vui vầy:  

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.         

   – Giữa những ngày hành quân gian khổ ấy, tâm trí của những chàng trau trong đoàn binh Tây Tiến luôn dành cho hoa, hoa về, hội đuốc hoa, hoa đong đưa. Và xúc cảm ưước những hình ảnh lãng mạn, tuyệt đẹp:

Người đi Châu Mộc chiều hôm ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.       

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.  

   Cũng có lúc, người chiến sĩ Tây Tiến thả hồn thơ mộng:

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

   b) Nét hùng

   Nét hùng tráng là khí vị chung của bài thơ, một khí vị hào hùng, quả cảm, đọc thấy cái đẹp chân thật, xúc động trước hình ảnh một đoàn quân mệt mỏi vì núi rừng gieo neo, vì bụi bám đường xa, vì mệt nhọc, đói khát cho nên:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.      

   – Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ, hoang sơ và dữ dội với nhiều đường nét, hình khối, màu sắc chuyển đổi bất ngờ, đoàn quân Tây Tiến có vẻ nhỏ bé, đối với thiên nhiên. Nhưng chính sự đối lập đó đã làm tăng thêm khí phách hào dáng nét hiên ngang bất khuất không gì ngăn cản nổi của đoàn quân:

Heo hút cồn mây súng ngửi trời,          

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.

   – Nét hào hùng còn thể hiện rõ ở khí thế chiến đấu của họ. Ngay trong lúc bệnh tật, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn anh dũng chiến đấu:

   “Như trận Dốc Đẹ (trên đường từ phố Vàng sang Mường Bi), có những chiến sĩ sốt rét run cầm cập vẫn nằm nguyên ở vị trí chiến đấu, bắn súng, ném lựu đạn, vần đá từ trên cao xuống, tiêu diệt nhiều lên địch. Bọn giặc sống sót phải xuống Suối Rút".

(Trần Lê Văn)

   Biết bao thanh niên đã dấn thân, đúng như hai chữ Tây Tiến, người chiến sĩ đã  hăng hái mà tiến, vui vẻ mà tiến về miền Tây, dù có trông thấy những mồ viễn xứ nằm rủi rác biên cương và biết rằng rất có thể phút này bản thân họ còn tồn tại, phút sau sẽ thành hư vô.

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

   Cái tiếng gầm rung chuyển của dòng sông Mã ngự trị cả một vùng thiên nhiên đang ngưỡng vọng sự hào tráng, khí phách anh hùng của những chàng trai Tây Tiến gây ấn tượng thật sâu sắc cho người đọc.

   Tóm lại, hai nét bi và tráng hoà lẫn nhau, tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ, nhưng nổi bật vẫn là nét hùng tráng.

III. KẾT BÀI

   –  Ba mươi bốn câu thơ Tây Tiến đầy hình ảnh sáng tạo thể hiện nỗi nhớ thiết tha của hồn thơ tinh tế, tài thơ tuyệt diệu của Quang Dũng. Đặc biệt, nghệ thuật thơ vừa phản ánh những nét bi hùng của cuộc chiến đâu chống Pháp, vừa thể hiện tâm tình riêng tư của những người thanh niên yêu nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

   –  Điều này cũng giải thích tại sao bài thơ Tây Tiến ra đời từ nửa thể kỉ trước, mà hôm nay ta vẫn rung động khi đọc những dòng thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!   

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 3

1. Những nét cơ bản về con người tác giả và hoàn cảnh sáng tác của bài thơ:

* Con người Quang Dũng có mấy đặc điểm:

Yêu nước thiết tha. Ông đã ném trọn tuổi trẻ của mình cho đời lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đúng như ông viết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Mỗi bài thơ của ông đều như mang linh hồn quê hương đất nước.

Một thanh niên trí thức Hà Nội tài hoa, lãng mạn đồng thời hết sức hồn nhiên chân thật. Những câu thơ hay nhât của ông hầu như đều là những câu tài hoa, lãng mạn và hồn nhiên chân chất.

* Hoàn cảnh sáng tác của bài Tây tiến.

Ấy là những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948) đời lính vô cùng thiếu thốn cơ cực. Nhưng người lính Tây Tiến lại còn thiếu thốn cơ cực hơn nữa. Vì ở rừng núi, xa đồng bào, sốt rét hoành hành, thuốc men thiếu thốn. Hành quân thì toàn lội suối, băng đèo – mà núi rừng phía Tây của Tổ quốc vùng biên giới Việt Nam – Lào thì vô cùng hoang vu hiểm trở.

Nhưng lính Tây Tiến phần đông lại là thanh niên Hà Nội. Chất anh hùng của họ vì thế có màu sắc riêng: màu sắc lãng mạn. Và dù gian khổ thiếu thốn họ vẫn sống cho ra người thanh lịch, hào hoa.

Quang Dũng là một người Tây Tiến như thế. Ông đã sống hoàn cảnh ấy và sáng tác bài thơ này – lúc đầu bài thơ có nhan đề nhớ Tây Tiến.

2. Đặc điểm chung và nổi trội của bài thơ: cảm hứng lãng mạn và tinh thần tráng:

Cảm hứng lãng mạn đặc biệt hướng về sự khẳng định cái tôi cá nhân được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó thích đắm chìm trong một thế giới phi thường, bí hiểm. Nó thích vẻ đẹp có tính chất xứ lạ phương xa. Nó thích đi vào thiên nhiên và tình yêu.

Đối với chủ nghĩa lãng mạn, cái buồn, nỗi đau, cái bi được xem như một phạm trù mĩ học. Cho nên nó thích nói đến sự cô đơn, sự chia ly, chuyện thất tình và cái chết.

Ở bài Tây Tiến, gắn liền với cảm hứng lãng mạn là tinh thần bi tráng. Tinh thần bi tráng một mặt là sự phản ứng chân thật hiện thực của đời người lính Tây Tiến (đầy gian khổ hi vọng, tử vong nhiều trong chiến đâu, nhất là do thiếu thốn cơ cực, bệnh tật…). Mặt khác là sự tiếp nốì dòng thơ lãng mạn trước và sau năm 1945 về một chủ nghĩa anh hùng bi tráng của thơ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Chinh Hữu với hình ảnh người chiến sĩ cưỡi ngựa, vung gươm, áo bào đỏ thắm một đi không trở về….

Phân tích hài thơ:

Do nhu cầu trình bày rành mạch và có trọng điểm, nên nêu ra ba ý gắn với đoạn chính của bài thơ:

Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội (từ câu 1 đến câu 14)

Tây Bắc tài hoa, mĩ lệ (từ câu 15 đến câu 22)

Chăn dung người lính Tây Tiến (từ câu 23 đến câu 30)

Ở đoạn 1, núi rừng Tây Bắc hiện lên thật hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội trên đường hành quân của người lính Tây Tiến, cảm hứng lãng mạn liền bắt lây những hình ảnh khác thường gây cảm xúc mãnh liệt:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

 Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

 Nhà ai Pha Luông mưu xa khơi

Đoạn thơ nhiều từ ngữ tạo hình gân guốc, bạo khỏe. Trong tưởng tượng của người đọc, hình ảnh đoàn quân như đang trèo trên những cồn mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Chữ "ngửi” vùa bạo, vừa có chất nghịch ngỢm “lính tráng", sức diễn tả mạnh mẽ, độc đáo.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Câu thớ như bẻ đôi, tạo cảm giác gấp khúc của hai sườn núi vút lên đổ xuống gần như thẳng đứng. Tiếp đó là một câu toàn vần bằng, gợi tưỏng tượng người lính nghỉ chân ngang dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa để thấy nhà ai đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi. Một kết cấu âm thanh đầy sáng tạo, gợi nhớ hai câu thơ tuyệt tác của Tản Đà (Thăm mả cũ bên đường):

Tài cao phân thấp chí khí uất

Giang hồ mê chơi quên quê hương.

Điều khác nhau là Tản Đà thì tả tình, còn Quang Dũng thì tả cảnh.

Đoạn thơ được kết thúc bằng hai câu thật êm ái dịu dàng:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Đoàn lính dừng chân ở một bản làng nằm giữa rừng sâu. Ở đây có đồng bào, có sinh hoạt đông vui của con người, có những cô gái Mường hay Thái  xinh đẹp như những bông hoa rừng.

Những kỷ niệm như thế, người lính Tây Tiến không thể nào quên được. Hai câu thơ này như chuẩn bị đi vào đoạn 2 của bài thơ.

Đoạn 2. Đoạn thơ mở ra một phương diện khác của núi rừng Tây Bắc – Thượng Lào (địa bàn hoại động của đoàn quân Tây Tiến). Có thể nói đây là phương tiện tài hoa mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc. Những từ ngữ mạnh mẽ gân guốc của đoạn trên được thay thế bằng ngôn ngữ tinh tế, mềm mại, thơ mộng: Một đêm liên hoan của quân và dân. Giữa “hội đuốc hoa" rực rỡ người lính như thổi lên ngỡ ngàng và trìu mến:

Kìa em xiêm áo tự bao giờ 

Vẻ đẹp có màu sắc xứ lạ phương xa càng khiến những tâm hồn lãng mạn thêm thi vị:

Khèn lên man điệu nàng  e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Bốn câu sau chuyển sang cảnh khác cũng thật đẹp và thơ mộng:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có  thấy hồn lau nẻo bến bờ

 Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong  đưa

Bốn câu thơ đầy chất họa (Quang Dũng là một họa sĩ có nhiều bức tranh phong cảnh rất tài hoa), đường nét thanh thoát, màu sắc tươi tắn.

Có những chữ thật khó nắm bắt ý nghĩa một cách rõ rệt. Thế nào là “hồn lau" nẻo bến bờ? Những bờ lau hàng vạn bông phơ phất theo gió chiều dường như có linh hồn chăng? "Có nhớ dáng người” gợi rất nhiều về vóc dáng thon thả uyển chuyển và duyên dáng của những cô lái đò Châu Mộc (Nguyễn Tuân thì gọi là vóc dáng rất tạo hình của các cô đò Thái). “Trôi dòng nước lũ hoa đong  đưa ". Tả những bông hoa rừng đong đưa nơi mép nước mà thấy được dòng nước lũ chảy xiết. Cần nhớ “đong đưa" chứ không phải ‘đung đưa". “Đong đưa” tình tứ hơn, có hồn hớn.

Đoạn 3. Chân dung người lính Tây Tiến thực ra không phải chỉ hiện lên từ đoạn thơ này. Nhưng ở đây nó là đối tượng chính và được mô tả trực diện trên bức tranh thơ. Vẻn vẹn chỉ có tám câu mà nói được đủ cả, từ diện mạo đến tâm hồn, khí phách, thái độ trước hết và vẻ hào hoa rất Hà Nội của những người lính Tây Tiến.

Tác giả nhìn thẳng vào sự thật: sự cơ cực, cái chết ("Không mọc tóc", “quần xanh màu lá”, "rải rác biên cương mồ viễn .xứ", "áo bào thay chiếu anh về đất”..v.-v…). Nhưng cảm hứng lãng mạn đã xóa đi những tiều tụy, lam lũ, bi thảm, lạo nên ở người lính Tây Tiến vẻ đẹp dữ dội oai hùng, vừa sang trọng hào hoa. Cho nên bi mà không lụy, đau buồn có nhưng không thê thảm. Vân đề không phải là che giấu sự thật mà là cách nhìn sự thật xuấl phát từ tình yêu nước và lòng cảm phục đôì với những con người sẩn sàng hi sinh tuổi trẻ, hi sinh những ước mộng hào hoa, hi sinh cả tính mệnh, sẩn sàng vùi thân nơi biên cương “viễn xứ" hoang vu, hco hút, vì Tổ quốíc mình.

Ớ đoạn thơ này có những chữ dùng rất "sang" (thường khai thác sắc thái trang trọng, cao quý của từ Hán Việt: dáng Kiều thơm, biên cương, viển xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành….) có những chữ dùng rất dữ lại đi đôi với những ngôn từ rất đỗi dịu dàng thi vị “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…”).

Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưửng đầy bi tráng:

Áo bào thay chiểu anh về đất

Sổng Mã gầm lên khúc độc hành

Đó là khúc nhạc dữ dội của núi rừng để tiễn đưa linh hồn người tử sĩ.

Bài thơ là một nỗi nhớ những ngày gian khổ và oanh liệt của đoàn quân Tây Tiến.

Mở đầu là nỗi nhớ cất lên thành tiếng gọi thiết tha: “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi" Nỗi nhớ cứ gợi dần những kỷ niệm của đoàn quân. Trên cái bối cảnh hùng vĩ dữ dội mà cũng rất thơ mộng của núi rừng Tây Băc, chân dung người lính Tây Tiến hiện lên tiều tụy mà lẫm liệt, lam lũ mà hào hoa, dữ dằn mà đa cảm và đầy thơ mộng.

Đó là những "tráng sĩ một đi không về” – một quan niệm về người anh hùng có màu sắc lãng mạn riêng của một thời.

Bài thơ cũng kết thúc bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ bao trùm một quá khứ tuy đã lùi xa mà sao vẫn cảm thấy như chỉ mới đây thôi.

Nhưng kỷ niệm sâu sắc và đẹp thế làm sao mà quên được! cho nên người lính Tây Tiên dù nay ở nơi đâu, hồn vẫn trở về “mùa xuân ấy" ở một vùng núi rừng miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc: “Hồn về sầm Nứa chẳng về xuôi".

Bình giảng bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng – Bài làm 4

“Có một bài ca không bao giờ qụên…"

Có một bài ca như thế. Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó là hững ngày kháng chiến chống Pháp, khi toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ với tất cả sức lực, niềm say mê. Chúng ta vừa qua nạn đói, vừa giành đươc độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm lược…

 Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã tái hiện trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ra đời trong hoàn cảnh chung đó.

Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Những ngày tháng Quang Dũng xa cuộc sống chiến đấu ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm về đồng đội là những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của núi rừng và in đậm nhất là nỗi nhớ người lính Tây Tiến.

Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng cũng như đồng đội trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để khi nhớ lại tác giả phải bật lên:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”

Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng với âm hưởng vần ơi, tạo nên sức mạnh biểu cảm lớn. Đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó là tiếng lòng của tác mả "xa rồi Tây Tiến ơi” nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng Quang Dũng như xoáy sâu vào tâm hồn người đọc.

Người đọc rung theo những cảm xúc do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tâỵ Tiến:

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? "Nhớ chơi vơi!" Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:

Ra về nhớ bạn chơi vơi  

Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ không định hình, khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra khỏi không gian đổ xoáy vào lòng người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Với tấm lòng thiết tha thì hẳn nỗi “nhớ chơi vơi” là điều hoàn toàn có lý. Cũng vẫn sử dụng vần “ơi” câu thơ có sức lan tỏa rộng, vẫn lan theo nỗi nhớ “chơi vơi" của tác giả.

Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến kỷ niệm để lại dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi:

"Nhớ về rừng núi… ”

Bài viết liên quan

0