25/05/2017, 00:49

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Văn mẫu lớp 10

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Phan Huy Chú Hà Nội Phạm Ngũ Lão là một danh tướng giỏi, tuy vậy ông cũng thích đọc ...

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Phan Huy Chú Hà Nội Phạm Ngũ Lão là một danh tướng giỏi, tuy vậy ông cũng thích đọc sách viết thơ, tuy ít nhưng đều mang đậm chất lòng yêu nước, tiêu ...

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Phan Huy Chú Hà Nội

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng giỏi, tuy vậy ông cũng thích đọc sách viết thơ, tuy ít nhưng đều mang đậm chất lòng yêu nước, tiêu biểu là bài thơ thuật hoài.Thuật Hoài là nỗi lòng của nhà thơ, thể hiện khí phách của những anh yêu nước thời trần.

Thuật hoài được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được chia làm hai phần. Hai câu đầu khắc họa rõ hình tượng con người và hình thượng người quân đội thời Trần với vẻ đẹp hào hung và đầy nhuệ khí, hai câu sau chính là nổi lòng, sự lo lắng của tác giả.

“Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu. ”

Đọc hai câu thơ đầu lên, ta có thể thấy rõ hai hình tượng được hiện ra đó là hình tượng tráng sĩ-chính là hình ảnh con người thời Trần và hình ảnh ba quân-đó là quân đội thời Trần. Hai câu thơ như một bản hùng ca nói lên khí phách hào hùng, sảng khoái của các chiến sĩ, đầu đội trời chân đạp đất.. Hai chữ “hoành sóc” là sự hiên ngang. ”. Không những thế mà hình ảnh người anh hùng hiên ngang ấy lại còn cầm ngọn giáo ấy trong tay trải qua biết bao nhiêu thời gian để đánh giặc, tô lên vẻ đẹp của anh hùng. Đó chính là dáng đứng bất khuất, hiên ngang tượng trung cho chính con người dân tộc ta thời Trần.

Nếu câu thơ đầu là hình ảnh người tráng sĩ, thì câu thơ thứ hai lại chính là sức mạnh đoàn kết của quân đội. “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” là khí mạnh của ba quân nuốt trôi một con trâu, như một con hỗ gầm thét có thể nuốt hết tất cả quân giặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ nét hình ảnh cũng như hình tượng hóa sức mạnh vật chất và tinh thần.

Hai câu thơ tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng trong đó là một hình tượng lớn. Với các bút pháp nghệ thuật, so sánh, miêu tả, phóng đại,…một hào khí sức mạnh lớn lao được toát lên vô cùng hùng hồn, táo bạo, từ đó gây ấn tượng mạnh cho người đọc từ hình tượng khách quan đến chủ quan , mở ra một không gian vô cùng rộng lớn, chân thực nhưng cũng không kém phần lãng mạn.

Nếu ở hai câu đầu là một giọng thơ vô cùng sôi động thì đến hai câu tiếp theo ta lại thấy như lắng xuống. Đây là hai câu thơ nói ra tâm sự, bộc bạch nổi lòng của nhà thơ.

“Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu. ”

Qua 2 câu này,tạm dịch là (Công danh nam tử còn vương nợ , Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu). Đối với ông, việc ông làm cho đất nước rất ít, chưa xứng đáng với công danh nam tử hán,ông nợ nước nhà, nợ vua.

Vẻ đẹp của người chiến sĩ không chỉ ở khí chất, sức mạnh mà nó còn thể hiện ở ý chí, cái tâm thức nó gắn liền với chí làm trai. Chí làm trai phải gắn liền với công danh, gắn liền với việc phò vua cứu nước, gắn với trách nhiệm lập công. Đây chính là một món nợ mà một đáng nam nhi phải trả. Phải trả nợ cho dân cho nước. Vào thời Phạm Ngũ Lão, thì việc mang nợ nước nhà, việc phải có công danh đã thôi thúc con người phải phấn đấu, tu dưỡng, bỏ đi những lối sống tầm thường để sẵn sàng hi sinh vì nước nhà.

Đối với Phạm Ngũ Lão, ông cảm thấy “thẹn”, vì bản thân ông chưa có tài mưu lược lớn để giúp giết giặc, bảo vệ nước như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, ông thẹn vì so với cha ông chưa có gì đáng nói. Nhưng qua lời thẹn đó ta lại thấy một lời thề mãi mãi trung thành, lời thề suốt đời tận tùy với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Lấy cái “thẹn” để thể hiện khát vọng, hoài bão để làm được những việc to lớn, xứng đáng hơn. Những người tài giỏi xưa nay đều chất chứa trong mình một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão vừa đề cao cái chí và cái tâm của con người thời Trần. Những con người sẵn sàng hi sinh để giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Qua bài thơ, cho ta biết được sự yêu nước của phạm ngũ lão, và những vị anh hùng của nhà trần yêu nước, biết hi sinh vì đất nước. Đồng thời tác phẩm thể hiện hào khí Đông A.

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 2

Cảm hứng chủ đạo của văn học dân tộc giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là cảm hứng yêu nước, anh hùng ca. Các tác phẩm phản ánh được âm hưởng hào hùng của các cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, mang âm điệu khỏe khoắn của cuộc sống yên bình, thịnh trị. Hào khí Đông A chính là bầu không khí chung đầy nhiệt huyết, mạnh mẽ của văn học thời kì này, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí quyết tâm, khát vọng sâu thẳm, lòng tự hào dân tộc đẹp đẽ của con người. Nằm trong mạch nguồn ấy, Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ độc đáo, được ra đời trong không khí quyết chiến quyết thắng của triều đại nhà Trần chống giặc Mông xâm lược.

Hai câu thơ đầu tiên của bài Tỏ lòng mở ra tư thế của người nghĩa sĩ, tráng sĩ trong cuộc chiến đấu của dân tộc. Đó là một tư thế đẹp đẽ, oai hùng, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Bài dịch thơ làm mất giá trị gợi hình của bản phiên âm. Trong bản phiên âm, có sự đối lập với giữa hình ảnh người tráng sĩ và không gian trời đất, vũ trụ, nhưng không thấy cong người nhỏ bé, đơn chiếc mà hiển hiện một tư thế sừng sững, uy nghi. Hình ảnh người tráng sĩ cắp ngang ngọn giáo tạo nên bức tượng đài nghệ thuật về con người trong cuộc chiến đấu bảo vệ dân tộc, không mệt mỏi, chán nản mà tràn đầy khí phách.

Câu thơ thứ hai trong Tỏ lòng thể hiện khí thế, sức mạnh của “ba quân”. Đó không chỉ là sức mạnh của quân đội mà còn là sức mạnh của cả dân tộc, đất nước. Hình ảnh cả dân tộc đứng dậy chống ngoại xâm khiến cho người đọc một cảm hứng ngợi ca, tự hào sâu sắc. So với bản phiên âm, bản dịch thơ chưa truyền tải được khí thế hào hùng của dân tộc chống ngoại xâm khi đánh mất chữ tì hổ. Đó chính là ý thức sâu sắc của tác giả về sức mạnh, tiềm lực dân tộc, đất nước. Đặc biệt, khí thế ấy có thể làm át cả sao Ngưu, trời cao. Sức mạnh của dân tộc lớn lao hơn cả sức mạnh của đất trời, của tạo hóa. Câu thơ thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc mạnh mẽ của Phạm Ngũ Lão.

Nếu như câu thơ đầu tiên thể hiện cái tôi tráng sĩ thì câu thơ thứ hai của Tỏ lòng lại khẳng định cái ta cộng đồng dân tộc. Chính sự hòa quyện, lồng ghép ấy tạo nên ý thơ đẹp, kĩ vĩ, mạng đậm âm hưởng sử thi, vừa hào hùng, vừa vĩ đại, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Hình ảnh người anh hùng của cả một dân tộc anh hùng là hình ảnh cụ thể đặt trong hình ảnh mang tính chất khía quát, là cặp hình ảnh quen thuộc, truyền thống của thơ ca cổ, có giá trị nâng tầm thời đại, chở đi tư thế cả dân tộc đấu tranh, đầy đẹp đẽ, hiên ngang. Giọng thơ hào sảng, phấn chấn, mang đậm âm hưởng hào khí Đông A, hai câu thơ của Tỏ lòng  là bức tranh hoành tráng về không khí chiến đấu, chiến thắng, về tư thế con người dân tộc trong đấu tranh. Thơ Phạm Ngũ Lão sử dụng hình ảnh ước lệ song vẫn bộc lộ được sự chân thực trong cảm xúc của tác giả. Hiện thực lịch sử là hoàn cảnh điển hình nảy sinh cảm xúc đẹp trong tâm hồn người nghệ sĩ và truyền cảm hứng ngợi ca, hào hùng đầy phấn chấn cho người tiếp nhận.

Hai câu thơ sau, Phạm Ngũ Lão đưa ra quan niệm về công danh, hay chính là quan niệm về chí làm trai trong xã hội phong kiến, liên quan đến thi cử, lập thân, đỗ đạt để ra làm quan. Quan niệm của Phạm Ngũ Lão có sự bi đổi mới mẻ: chí làm trai, công danh chính là sự gánh vác của con người với sự nghiệp lớn lao của đất nước, làm rạng danh dân tộc, làm vẻ vang quê hương. Quan niệm giặc còn, nợ công danh vẫn còn của ông thể hiện ý chí chiến đấu bền bỉ, lòng quyết tâm chống giặc mạnh mẽ. Người tráng sĩ phải có chí lớn, có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc.

Nếu công danh là chí, thì nợ thì thẹn công danh cũng là điều dễ hiểu. Phạm Ngũ Lão mượn cách nói ước lệ, sử dụng điển tích, điển cố mà gửi gắm tâm trạng của mình. Đó vừa là sự khiêm tốn, tế nhị, vừa là sự khẳng định một cách đúng mực cái tôi của chính mình. Người đọc nhận ra cái thẹn cao cả, phải là người anh hùng. Hào khí Đông A, tinh thần yêu nước không thể hiện bằng triết lí khô cứng mà là sự giãi bày nỗi lòng của tác giả, được viết ra bằng một giọng văn súc tích, “quí hồ tinh bất quí hồ đa”.

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 3

Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là bài thơ hừng hực khí thế Đông A của lịch sử Việt Nam. Với lời thơ hùng hồn và tấm lòng quân tử nặng nợ tình. Là một vị tướng rất giỏi của thời đại nhà Trần, ông giết hàng trăm kẻ giặc bảo vệ đất nước và giúp cho vua Trần thắng trận. Đồng thời ông cũng là một nhà thơ, với sở thích đọc sách ngâm thơ nên trong cuộc đời ông cũng để lại một số những bài thơ tiêu biểu cho nền văn học nước nhà. Ông đã xây dựng hình tưởng vẻ đẹp về người anh hùng thời loạn, một tráng sĩ hiên ngang tay cắp ngang ngọn giáo, đánh đông dẹp bắc để lập công danh. Và hình tượng ấy được ông thể hiện nhiều nhất qua bài thơ tỏ lòng.

Tỏ lòng là nỗi lòng của nhà thơ về những chí khí của một người anh hùng sống trên đời, không những thế bài thơ còn là những lời để cho nhà thơ thể hiện sự yêu mến và cho người đọc thấy được những khí phách của quân đội nhà Trần. Chúng ta như cảm thấy một anh hùng lớn ở đây, chính ông đã mang đến một bài thơ hay cho chúng ta. Đồng thời qua bài thơ đó ta thấy Phạm Ngũ Lão là một bậc danh tướng trung quân ái quốc có lí tưởng lớn lao.

Bài thơ là bức chân dung tự họa của Phạm Ngũ Lão, thể hiện niềm tự hào về chí khí nam nhi và  khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Hai câu thơ đầu như vẽ lên hình ảnh của những người anh hùng đầu đội trời chân đạp đấp không những hiên ngang mà còn kiên cường bất khuất. Dường như hình ảnh người anh hùng cầm cây giáo trong tay chính là hình ảnh của nhà thơ một thời. Tác giả nói về người con trai, một vị tướng sống trên đời thì phải biết cầm ngọn giáo trên tay mà đánh giặc, mà bảo vệ tổ quốc, đất nước được yên bình thịnh vượng. Sự hiên ngang hùng dũng ấy được tác giả thể hiện bằng ai từ hoành sóc, mới đọc lên người ta đã cảm nhận được cái sự ngang tàng và đầy sức mạnh của những chàng trai mang nặng lòng yêu nước ấy. Hình ảnh người anh hùng hiên ngang ấy không chỉ có dừng lại ở hình ảnh đó, mà ngọn giáo trên tay người anh hùng trải qua biết bao thời gian để đánh giặc ấy còn là ngọn giáo ấy được đo bằng không gian non sông đất nước và chiều dài của lịch sử. Hình như giáo cũng có không gian sinh thành và có tuổi đời như chúng ta vậy. Vẻ đẹp sức mạnh của những người anh cộng lại nó sẽ trở thành sức mạnh và vẻ đẹp của quân đội nhà Trần. Sức mạnh ấy được nói như có thể nuốt trôi được một con trâu lớn. Khí phách ấy giống như một con hổ lớn có thể nuốt hết tất cả những tên giặc kia nếu chúng không chịu rút quân về nước. Binh tốt không những phải giỏi mà còn phải có một tinh thần tốt thì mới chiến thắng được.

Những câu thơ cuối với tiết tấu dàn trải, nhẹ nhàng không còn mạnh mẽ như ở câu thơ đầu, khi tác giả mạnh mẽ phô trương sức mạnh dân tộc và ý chí hùng hồn. Câu thơ thứ ba như một sự thở dài, một sự hổ thẹn, vị tướng tài như vẫn còn một nỗi băn khoăn trong lòng về thế sự quốc gia, tiềm ẩn một nỗi khát khao cống hiến và chiến đấu hết mình cho đất nước. Đúng hơn, Phạm Ngũ Lão cảm thấy buồn khi nước nhà còn trong cảnh gian nan, khổ ải và đau khổ vì chiến tranh, cảm thấy như mình vẫn chưa xứng đáng là một người con nước Nam, còn chưa đánh đuổi được quân xam lược. Niềm khao khát của Vị tướng tài muốn xông pha nơi trận mạc, muốn đánh đông dẹp bắc đánh đuổi quân Nguyên-Mông ra khỏi bờ cõi. Câu thơ này còn là một sự thúc dục ba quân, khuyến khích họ xứng đáng một trang nam tử đầu đội trời chân đạp đất, lập công danh cho nước nhà, vang dội sử xanh. Nếu ở hai câu đầu như một sự thông báo kiêu hãnh với trời đất về sức mạnh và quy mô của một đội dũng binh đang chuẩn bị xuất trận, báo hiệu một chiến thắng huy hoàng đang chờ đón trước một sức mạnh như vũ bão, câu thơ thứ hai là một tiếng thở dài trầm lắng, nhẹ nhàng để người ta suy nghĩ lại về chí làm trai, về mục đích của người đàn ông sống trên đời, thúc dục ý chí và lòng căm thù giặc của ba quân, tạo cho họ một sự vững chắc về tâm lý cũng như lòng tin về chiến thắng thì ở câu thơ thứ cuối bài thơ, tác giả đã nêu lên một tấm gương để học hỏi, để noi theo và cho thấy sự phấn đấu lập công lớn lao của mình.

Bài thơ là niềm tự hào của mỗi chúng ta về truyền thống đạo đức, truyền thỗng yêu nước của ông cha ta.

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 4

Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” ( Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

-“Thuyền bè muôn đội;

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 5

Phạm Ngũ Lão là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay, trong đó nổi bật lên là bài thơ Tỏ Lòng, với những cảm xúc đan xen và tấm lòng yêu nước của tác giả được thể hiện vô cùng sâu sắc trong tác phẩm.

Trong tác phẩm hàng loạt những ý chí quyết tâm được dựng xây nhằm thể hiện một ý chí kiên cường và sự anh dũng đối với tất cả mọi người, sự quyết tâm để dành được độc lập tự do cho dân tộc, trải qua mấy nghìn thu, vẫn luôn múa giáo và tung hoành khắc giang sơn để có thể tìm ra một lối thoát cho chính dân tộc của mình. Đây đều là những ý chí và lòng quyết tâm sâu sắc nhất mà họ mong muốn dành cho dân tộc:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

(Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.)

Với một ý chí quyết tâm cao, lòng chiến đấu anh dũng đã được đẩy mạnh mẽ với những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng nó lại có một sức mạnh vô cùng to lớn khắc khoải trong trái tim của mỗi con người, đoàn kết sức mạnh, 3 quân đoàn kết với nhau để có thể đánh thắng được kẻ thù. Kẻ thù được ví như trâu, trâu biểu tượng cho sức mạnh và sự hung dữ, nhưng khi ba quân đã kiên cường và đoàn kết, thì điều đó trở nên vô cùng nhẹ nhàng và nó có ý nghĩa to lớn là đánh thắng được những kẻ thù. Sức mạnh của ba ba quân đó là sức mạnh của sự đoàn kết, luôn chiến đấu và sẵn sàng nuốt trôi đi kẻ thù, dù cho kẻ thù có nặng và nguy hiểm tới mức độ như thế nào.

Mấy mùa thu đi qua, múa giáo trên giang hồ, và cầm bút chiến đấu cũng luôn cố gắng hết sức mình, đó là sức mạnh của những ý chí, lòng quyết tâm, và sự quyết tâm cao độ, trong khoảng không gian đó, sức mạnh của mỗi người đều được nâng cao, và nó trở thành một động lực để chiến đấu. Những chiến công đó đều tạo nên được những công danh cho cuộc đời, và sự nghiệp của đất nước, mỗi chúng ta đều có thể thấy được ý chí và tính kiên cường của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Tư thế hiên ngang anh dũng, nó thể hiện một ý chí kiên cường, quyết tâm để đem lại chiến công cho dân tộc, ở đây tư thế của những đấng nam nhi, nâng cao được tài năng và ý chí kiến cường của những người chiến sĩ cách mạng.

Những bậc nam nhi trong thiên hạ đều được giao trọng trách và trách nhiệm bảo vệ đất nước, chính những điều đó mà trên người những người quân tử luôn mang những vấn vương, và công nợ đối với đất nước. Trong hai câu thơ đầu dường như tác giả đang thể hiện khí phách của những anh hùng dân tộc, đó là sức mạnh của sự kiên cường, lòng quyết tâm và còn thể hiện được ý chí anh dũng thực hiện được những trọng trách và mang lại nhiều tác dụng lớn trong cuộc đời của tác giả, những điều đó đã tạo nên được cho chúng ta thấy một con người có tinh thần và trách nhiệm cao đối với đất nước và đối với những người dân nghèo của dân tộc:

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)

Công danh của những đấng nam nhi, phải xuất phát từ một tấm lòng yêu nước, thương dân, công danh và sự nghiệp đó họ phải đánh đổi bằng xương máu của chính mình, nhưng dù khó khăn, gian nan và vất vả, nhưng họ vẫn không nản chí, mà luôn vượt qua để đạt được những công danh và sự nghiệp bất ngờ đối với chính dân tộc của mình. Những tình cảm của những đấng nam nhi đều được tạo nên từ những đều đơn giản nhất, đó là sự quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc.

Khí phách anh hùng luôn luôn được đẩy cao và nó đã tạo nên một ý chí và lòng quyết tâm đối với những bậc chính quân trong thiên hạ. Món nợ công danh đó là những chiến công và sự quyết tâm và trách nhiệm đối với dân, với nước. Tấm lòng của những bậc chính nhân anh hùng, đó là những ý chí đối với chính con người và đất nước của dân tộc Việt nam, trong chính những vần thơ trên mà tác giả đã thể hiện được những cảm xúc và những tấm lòng và lòng hẹn ước của dân tộc. Chính tác giả đang thể hiện nỗi lòng của mình, và những tấm lòng đó là mối thẹn thùng với ý chí của tấm lòng của ý chí của một người trai nhân.

Trong bài thơ cảm xúc của tác giả đã thể hiện được khí phách anh hùng của những nam nhi thời hán đường, đó là những con người có ý chí và lòng kiên cường, sự quyết tâm và tấm lòng có phần day dứt của tác giả, khi bản thân vẫn còn mang mối nợ đối với đất nước, dân tộc và đất nước, cảm xúc của tác giả đang thể hiện những tình cảm đặc biệt đối với những anh hùng có cảm xúc mạnh mẽ và tấm lòng của tác giả đối với dân tộc của mình. Trong trái tim của tác giả, vừa thẹn thùng khi mình chưa bằng vũ hầu.

Bài thơ đã mang âm hưởng mạnh mẽ và da diết trong tâm hồn của một đấng nam nhi, khi muốn lo và phục vụ những lợi ích thiết thực đối với chính dân tộc của mình, cảm xúc đó đã tạo âm hưởng sâu xa, và nhịp điệu và hồn phách trong chính tác phẩm này.

Cảm nhận bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão – Bài làm 6

Âm vang của thời đại Đông A với những chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm, ba lần đánh bại Nguyên – Mông đã in dấu trên nhiều trang viết của các nhà thơ đương thời. Phạm Ngũ Lão – danh tướng nhà Trần "đánh đâu thắng đó" cũng ghi lại những xúc cảm của mình qua Thuật Hoài – tác phẩm thể hiện rất đẹp hình ảnh và khí thế của người trai thời đại, cũng là tư thế của dân tộc trong những ngày hào hùng ấy.

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Bài thơ chữ Hán , vẻn vẹn 28 chữ đã có một dung lượng thông điệp thẩm mỹ lớn, thể hiện khí phách nhà thơ – dũng tướng. Thi ngôn chí là nội dung tư tưởng của đề tào Thuật hoài, Vịnh hoài, cảm hoài… Nhưng sẽ không thể có cái ung dung hào sảng nếu tách bài thơ ra khỏi không khí thời đại bừng bừng "sát Thát". . Bài thơ không tách rời khỏi quỹ đạo tư tưởng Nho giáo trong mẫu hình người anh hùng cá nhân phong kiến nhưng trước hết nó là nỗi lòng của người "một thời tuy đã nên tướng giỏi – chí khí anh hùng vẫn khát khao". Giấc mộng lập công dương danh luôn là điều ám ảnh những kẻ sĩ, đại trượng phu thời phong kiến, đi liền với các tước phong công, hầu, khanh, tướng. Nhưng trong bài thơ này, con người đã được phác bằng những câu thơ có sức khái quát cao độ tinh thần dân tộc tự cường.

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Câu khai đề của bài thơ đã tạo một tư thế rất đẹp của con người. Bản dịch vung giáo, múa giáo đều không ổn vì lập tức nó sẽ phá vỡ đi đối trọng con người – không gian. Một bên là giang sơn – sông núi quê hương rộng lớn; một bên là con người hoành sóc – cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông. Thế "hoành" của ngọn giáo khiến tầm vóc con người như vươn lên ngang tầm sông núi. Hình ảnh người lính vệ quốc toát lên vẻ bình thản hiên ngang. Không những thế, trong mối tương quan con người – thời gian còn làm nổi bật ấn tượng về sự bền bỉ , uy dũng của người trai thời đại. Bởi lẽ con người không chỉ đứng đó trong thoáng chốc mà đã trải qua "mấy thu" rồi. Câu thơ xác lập một tư thế con người lồng lộng giữa đất trời, ngang tầm vũ trụ. Không những thế, cả đoàn quân cùng chung tư thế ấy :

Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu

Câu trên là hình ảnh, câu dưới là thần thái con người. Người chiến sĩ cầm ngang ngọn giáo kia với tam quân đã tạo thành một tường thành vững chắc, im phăng phắc mà khí thế "xung thiên". Câu thơ còn gợi về một ý thơ của Quảng Nghiêm thiền sư : "Nam nhi tự hữu xung thiên chí". Tư thế sẵn sàng xung trận đã hình thành tứ thơ thật đẹp "tỳ hổ khí thôn ngưu". Tuy rằng cách diễn ý chưa thoát khỏi lối ước lệ tượng trưng quen thuộc của thơ xưa nhưng để hiểu cặn kẽ cũng không phải là điều đơn giản. Theo cảm quan thẩm mỹ cổ điển, câu thơ gợi lên khí phách đoàn quân quyết chiến làm át cả sao Ngưu – vì tinh tú sáng chói trên trời. Nhưng cách hiểu "ba quân như hổ mạnh nuốt trôi trâu" đem đến cảm nhận cụ thể hơn về sức mạnh của quân đội còn non trẻ đương đầu với đội quân Nguyên – Mông hùng mạnh và thiện chiến, dường như có hàm ý ngợi ca tự hào mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ tỳ hổ là cách so sánh mang đậm chất võ của người thống lĩnh ba quân. Trong sự liên tưởng ấy, hổ và trâu hoàn toàn không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của câu thơ mà làm rõ hơn cho dũng khí của quân đội nhà Trần.

Nhưng hai câu thơ đầu mới chỉ là nền để nhà thơ bộc bạch lòng mình :

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Đây mới là điều canh cánh bên lòng của người dũng tướng, gắn với bổn phận của kẻ làm trai thời phong kiến . Bao đời nay, nợ công danh từng là niềm ám ảnh khôn nguôi với những người làm trai trong thời phong kiến. Phải chăng, một người anh hùng như Phạm Ngũ Lão cũng không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn "công hầu kha nh tướng" ấy? Giả sử có như vậy cũng là lẽ thường tình, nhất là trong thời đại giá trị con người được tạo nên từ những chiến công – thời thế tạo anh hùng. Câu thơ bộc lộ niềm khao khát lớn, một điều băn khoăn chưa trả với đời của người trai làng Phù Ủng năm nào. Tất cả nỗi niềm của ông được thổ lộ trong sự đối sánh với tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng thuở xưa. Bậc mưu thần, danh sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, người đã xả thân vì cơ nghiệp nhà Thục, vì chúa Lưu Bị, nhắm mắt chưa yên công cuộc "ủng Lưu phản Tào". Tất cả đã rõ, tâm niệm của Phạm Ngũ Lão nào khác nguời xưa khi ông mong muốn làm nên công nghiệp phò tá cho vua, thực hiện lý tưởng trí quân trạch dân cao cả của bề tôi trung thành tận tuỵ. Nỗi thẹn của người anh hùng toả sáng một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về nghiệp lớn muôn đời, vì sự bình yên của sơn hà xã tắc.

Bài thơ là sự phản chiếu một thời đại hào hùng, khi lý tưởng trung quân ái quốc hoà nhịp trọn vẹn trong tình cảm, tâm hồn nhà thơ, thời đại "vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước ra sức".Tâm nguyện của Phạm tướng quân đã phản chiếu tâm tư của bao người trai thời Trần : ý thức rõ giá trị bản thân, nhận rõ sự gắn bó cá nhân với cộng đồng – dân tộc – đất nước. Xúc cảm hào hùng toả sáng trong hình tượng thơ, đem đến cho người đọc cái nhìn trọn vẹn về con người thời đại Đông A.

Từ khóa tìm kiếm

  • cảm nhận của em về tác phẩm thuật hoài
  • cảm nhận thuật hoài
  • nêu suy ngi cua anh chi về mối quan hệ nổi bât trong tỏ lòng

Bài viết liên quan

0