31/03/2021, 15:30

Bài văn phân tích tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" số 4 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Năm 1846 ông về Gia Định mở trường dạy học bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân và làm thơ. Khi giặc Pháp dụ dỗ ông vẫn giữ trọn lòng mình thủy chung son sắc với đất nước và nhân dân. Thơ văn của ông thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao ...

Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Năm 1846 ông về Gia Định mở trường dạy học bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân và làm thơ. Khi giặc Pháp dụ dỗ ông vẫn giữ trọn lòng mình thủy chung son sắc với đất nước và nhân dân. Thơ văn của ông thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao đẹp nhân nghĩa với những con người sống cao đẹp nhân hậu thủy chung biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng cao cả dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn cứu nhân độ thế.


Bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một tác phẩm như thế. Bài văn là tiếng khóc từ đáy lòng của tác giả và tiếng khóc lớn của nhân dân trước sự hi sinh của những anh hùng. Văn tế là một loại văn thường dùng trong khi đọc tế cúng người chết nó có hình thức tế - tưởng. Bài văn tế có các phần: Lung khởi là cảm hứng khái quát về người chết, Thích thực hồi tưởng về công đức của người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của người cúng tế đối với linh hồn người chết.


Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có đủ bốn phần như vậy. Mở đầu bài thơ là một lời than: "Hỡi ôi! Súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ". Tiếng than vang lên mà nghe sao đau thương đến thế. Tiếng than ấy cho ta một ý nghĩ về một cảnh tang thương chết chóc là cảnh chiến tranh tàn khốc với những người đã bị tử trận trên chiến trường. Ông trời có thấu hiểu lòng người, có thấu hiểu được nỗi tang thương đau xót trong lòng những người thân nhân của những người dân đã tử trận.


Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ rất nhiều nguồn cảm xúc. Đó là thái độ cảm phục và niềm thương xót vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ. Các chi tiết" xác phàm vội bỏ"; "nào đợi gươm hùm treo mộ";" tấc đất ngọn rau ơn Chúa", "tài bồi cho nước nhà ta"; "quan quân khó nhọc","ăn tuyết nằm sương"; "đồn lũy tan tành" thể hiện niềm thương cảm và xót thương ấy một lần nữa khẳng định nghĩa binh chỉ là những người dân thường, nhưng sẵn sàng dấy binh vì một lòng yêu nước.


Bên cạnh đó tác giả miêu tả hình tượng người chiến sĩ với vẻ đẹp của hình thức bên ngoài "chẳng qua là dân ấp dân làng", "ngoài cật có một manh áo vải", "trong tay cầm một ngọn tầm vông". Đó là những hình ảnh của những người dân chân lấm tay bùn cơm không đủ no áo không đủ ấm. Còn cuộc sống hàng ngày của họ thì được tác giả miêu tả bằng những câu văn mộc mạc dễ hiểu không mấy cầu kì về câu chữ, họ hiện lên là những người "cui cút làm ăn toan lo nghèo khó", "chưa quen cung ngựa", "việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó".


Từ đó cho ta một cái nhìn toàn diện đầy đủ nhất về người nông dân. Họ vốn là những người dân lao động bình thường và họ cực kì lương thiện không bao giờ muốn xảy ra chiến tranh, họ không đi cướp bóc không muốn đi xâm chiếm nước khác để làm giàu cho mình mà họ mãn nguyện về cuộc sống khốn khó nhưng hòa bình của mình. Có chăng ước mơ to lớn nhất của họ chính là đủ cơm ăn áo mặc.


Thế nhưng khi tổ quốc lâm nguy súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ xở thì họ lạ có một tinh thần kháng chiến sục sôi. "Súng rền" cho thấy bọn giặc đã sử dụng những vũ khí rất tối tân chứ không phải là gậy gộc, là khiên là mác nữa cho thấy ở đây có một khoảng cách xa về vũ trang của cả hai bên. Nhà văn đã miêu tả được vẻ đẹp của người dân yêu nước sao mà giản dị đến thế: "Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng trông tin quan trường như trời hạn trông mưa mùi chinh chiến vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhà hồn ghét cỏ".


"Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ". Chính vì thế mặc dù dân ấp dân làng, ngoài cật có một manh áo vải trong tay cầm một ngọn cầm vông nhưng họ vẫn sẵn sàng tự nguyện xả thân vì nghĩa lớn "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ", "chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to xô cửa xông vào liều mình như chẳng có" và thế là "kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho tà mã ma ní hồn kinh bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.


Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những dân bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Cách thể hiện hình tượng người nghệ sĩ rất tỉ mỉ từ trang bị thô sơ hành động dũng cảm nguyện xả thân mình để bảo vệ đất nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

TRAN THI THU TRANG trang

208 chủ đề

2330 bài viết

Cùng chủ đề
Có thể bạn quan tâm
0