31/03/2021, 15:31

Bài văn phân tích bài thơ "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến số 7 - 10 Bài văn phân tích bài thơ "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến hay nhất

Một trong những thú vui tao nhã của con người đó là đi câu cá. Những bậc hiền tài thời xưa cũng không ngoại lệ. Đôi khi họ đi câu cá để ngồi trên bờ suy nghĩ những chuyện giúp ích cho thiên hạ, chuyện năm châu bốn biển, thế sự đảo điên. Các bậc cao nhân đi câu cá để hưởng thụ thiên ...

Một trong những thú vui tao nhã của con người đó là đi câu cá. Những bậc hiền tài thời xưa cũng không ngoại lệ. Đôi khi họ đi câu cá để ngồi trên bờ suy nghĩ những chuyện giúp ích cho thiên hạ, chuyện năm châu bốn biển, thế sự đảo điên. Các bậc cao nhân đi câu cá để hưởng thụ thiên nhiên, hòa mình vào không gian trời đất giúp mình cảm thấy tự tại.


Tác giả Nguyễn Khuyến đã đi câu cá kiểu này, ông đã tận dụng mọi giác quan để cảm nhận hết mọi sự vật sự việc diễn ra xung quanh bản thân. Ông cảm nhận mùa thu một cách chân thực nhất, cũng như bao người khác khi đi câu ông cũng tập trung tinh thần, chờ đợi kết quả. Cuối cùng có lẽ kết quả to lớn mà ông dành được chính là tác phẩm “ Thu điếu”. Một trong những tác phẩm kiệt tác của nước nhà.


“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”


Hình ảnh mùa thu hiện ra một cách vô cùng giản dị và thân thương với không gian bình dị ở làng quê tác giả trong một chiếc ao nhỏ với một chiếc thuyền lặng lẽ trôi:


“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”


Đằng sau những ngôn từ dân giã đó chính là một cái tôi trữ tình của tâc giả. Cảm giác của thi nhân hiện lên vừa sắc sảo mà hết sức tinh tế. Mùa thu đã vào chiều sâu, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” rất muốn nhìn, ao thu như là chiếc gương tròn của làng quê.


Làng Bùi của nhà thơ là đồng chiêm trũng rất nhiều ao, ao nhỏ. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận hiểm hóc, vậy mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kĩ xảo cả. Thuyền câu đã hiện ra đấy mà người câu đâu chẳng thấy. Cũng chưa thấy cần thấy nhợ gì cả. Người đi câu còn mải mê với trời nước của mùa thu:


Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng, trước gió khẽ đưa vèo


Ao thu chẳng còn mang vẻ tĩnh lặng như lúc ban đầu nữa ngược lại đã bắt đầu nổi những cơn sóng nhỏ với hai thanh trắc ở đầu câu (sóng biếc) và hai thanh trắc ở cuối câu (gợn tí). Sóng nhỏ vốn lẽ bởi vì ao nhỏ, lại ở trong một chỗ khuất. Nét đặc biệt của mùa thu thì phải kể đến từng cơn gió nhẹ, từng ngọn gió heo may thổi qua một cách nhẹ nhàng. Con sóng được tác giả miêu tả với màu sắc vô cùng mới mẻ và đặc biệt “sóng biếc”.


Cho dù những chi tiết nhỏ nhất tác giả cũng đặt hết tâm huyết của mình vào tạo ra một sự tinh tế sắc sảo đến lạ thường. Hai câu thực đối rất chỉnh “sóng biếc” đối với “lá vàng”, đều là màu sắc đặc trưng của mùa thu. “Hơi gợn tí” đối với “khẽ đưa vèo”, vận động của chiều dọc tương xứng với vận động của chiều ngang thật tài tình.


Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Nhà thơ đã thả hồn theo chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” trên mặt ao trong veo. Cái màu vàng của mùa thu mà bao nhiêu thi nhân đã ngợi ca:


Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô

(Lưu Trọng Lư)

Vàng rơi! Vàng rơi!

Thu mênh mông.

(Bích Khê)


Dưới cặp mắt nghệ thuật của nhà thơ Xuân Diệu thì chiếc lá vàng trong thơ Nguyễn Khuyến “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi…”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.


Nhà thơ còn mở rộng không gian lên cao giúp cho bức tranh của Thu điếu thêm phần rộng lớn, bao quát , thêm đường nét và thêm những đường sắc mới.


“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”


Một màu xanh vô cùng nhẹ nhàng nhưng vô cùng đẹp đẽ mang lại cho chúng ta một cảm giác thoải mái dễ chịu. Trong màu “xanh ngắt” có cái thăm thẳm của chiều cao. Mây không trôi mà “lơ lửng” những áng mây trắng “lơ lửng” trên bầu trời “xanh ngắt” thật là thanh bình. Xa xa gần gần rồi tác giả bắt đầu quay lại với hình ảnh thôn quê mộc mạc. “Ngõ trúc quanh co”, đường làng quanh co thân thuộc với bóng tre trùm mát rượi.


Những hình ảnh đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Nhưng mỗi tác giả đều có cách làm cho hình ảnh mình miêu tả trở nên nổi bật và Nguyễn Khuyến cũng không ngoại lệ. Nguyễn Khuyến có lẽ rất thiach hình ảnh của loài tre trúc ấy “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” (Thu vịnh), “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Ông đã nhắc đến nó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật chắc có lẽ là vì khí chất hiên ngang không chịu khuất phục của nó.


“Trúc dầu cháy đốt ngay vẫn thẳng”. Trên con đường làng quê quanh co uốn lượn lại điểm xuyết những rặng trúc thẳng tắp hình ảnh trái ngược nhưng lại góp phần cho chúng ta cảm nhận đượ hết nét gần gũi của làng quê Việt Nam. Trời lạnh, đường quê vắng vẻ, “khách vắng teo”. Bức tranh thu đượm buồn. Các thi sĩ thích miêu tả cảnh thu trong tĩnh lặng, đẹp, nhưng buồn. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:


Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

(Đây mùa thu tới)


Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:


Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần”, dường như để tương xứng với khung ao nhỏ, với chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ đang đắm chìm vào sự suy tư quên hết đi mọi thứ tạp niệm thì bỗng nhiên một tiếng cử động nhỏ đã khiến tác giả sực nhớ mình đang đi câu cá. Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Có ý kiến cho rằng cử chỉ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và nhà bình luận đó hết lời ngợi ca cả hai ông. Không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Nhà thờ chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống.


Toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này. Khung cảnh hẹp, làn ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ thu mình lại “tựa gối ôm cần” hòa điệu với thiên nhiên, tan hòa với non nước. Thế thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến lại giống với thái độ đi câu của Khương Tử Nha được? Còn đồng tình với ai đó là chuyện riêng. Tôi đồng tình với Nguyễn Khuyến.


Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ của ông đều có thể nói là vô cùng tuyệt vời, tùy nhiên nếu cho tôi chọn một tác phẩm tâm đắc nhất đó chính là “Thu điếu”. Tác phẩm này có thể coi là kiệt tác văn học trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước ta một cách vô cùng chân thật. Nhạc điệu cũng độc đáo. vần gieo hiểm hóc mà tự nhiên, hồn nhiên.


Theo Xuân Diệu, cả bài thơ không còn lép chữ nào. Quả thật Nguyễn Khuyến là một thi sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ cũng luôn đi đôi với chữ tài. Một tình yêu to lớn đối với quê hương đất nước con người Việt Nam từng câu từng chữ mà tác giả nhắc đến đều tạo ra những xúc cảm trong tâm hồn Việt Nam.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

nhi nguyen

238 chủ đề

2591 bài viết

Cùng chủ đề
Có thể bạn quan tâm
0