31/03/2021, 14:50

Bài soạn "Ông già và biển cả" số 1 - 6 Bài soạn "Ông già và biển cả" của Hê-Minh-Uê lớp 12 hay nhất

I. Đôi nét về tác giả Hê-Minh-Uê - Hê-minh-uê tên khai sinh là Ơ-nít Hê-minh-uê, sinh năm 1899, mất năm 1961, tại bang I-li-noi trong một gia đình trí thức - Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi làm phóng viên. - 19 tuổi, ông tham gia đội xe cứu thương của Hội chữ thập đỏ trong ...

I. Đôi nét về tác giả Hê-Minh-Uê

- Hê-minh-uê tên khai sinh là Ơ-nít Hê-minh-uê, sinh năm 1899, mất năm 1961, tại bang I-li-noi trong một gia đình trí thức
- Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi làm phóng viên.
- 19 tuổi, ông tham gia đội xe cứu thương của Hội chữ thập đỏ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất ở chiến trường I-ta-li-a, sau đó ông bị thương và trở về Hoa Kì.
- Ông thất vọng về xã hội đương thời, tự nhận mình thuộc thế hệ mất mát, không hòa nhập với xã hội đương thời và đi tìm bình yên trong men rượu và tình yêu.
- Sau đó, ông sang Pháp, vừa làm báo vừa bắt đầu sáng tác.
- Năm 1926, ông sáng tác tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc và nổi tiếng từ đó.
- Ông để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và nhiều hồi kí, ghi chép.
- Những tác phẩm nổi tiếng của Hê-minh-uê: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chuông nguyện hồn ai (1940), Ông già và biển cả (1952).
- Hê-minh-uê là nhà văn lỗi lạc nhất nước Mĩ vào thế kỉ XX, ông khai sinh lối viết kiệm lời, kiệm cảm xúc.
- Ông là người đề ra nguyên lí sáng tác “tảng băng trôi”:
+ Dựa vào hiện tượng tự nhiên: tảng băng trên mặt nước chỉ có ba phần nổi, bảy phần chìm.
+ Nhà văn phải hiểu biết cặn kẻ về điều muốn viết, sau đó lược bỏ những chi tiết không cần thiết, giữ lại những phần cốt lõi, sắp xếp lại để người đọc vẫn có thể hiểu được những gì tác giả đã lược bỏ.
+ Người đọc phải đồng sáng tạo mới có thể hiểu được “bảy phần chìm”, những hình tượng, những hình ảnh, … giàu tính tượng trưng đa nghĩa.
- Dù viết về đề tài gì, Châu Phi hay Châu Mĩ, Huê-minh-uê đều nhằm mục đích “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”.
- Ông đã nhận được Giải thưởng Pu-lit-dơ năm 1953 - Giải thưởng văn chương cao qúy nhất của Hoa Kì và Giải thưởng Nô-ben về văn học.

II. Đôi nét về tác phẩm Ông già và biển cả

1. Hoàn cảnh ra đời

- Năm 1952, sau 10 năm sống ở Cu-ba, Hê-minh-uê đã cho ra đời tác phẩm Ông già và biển cả
- Trước khi in thành sách, tác phẩm được in trên tạp chí Đời sống
- Tác phẩm tiêu biểu cho lối viết “tảng băng trôi” của Hê-minh-uê

2. Tóm tắt

Lão chài Xan-chi-a-gô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển ngoại ô thành phố La-ha-ba-na. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi, đi đi về vế chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông lại ra khơi chỉ có một mình đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi rất nhiều cá. Buông câu từ sáng sớm, mãi đến non trưa phao câu mới động đậy. Cá mắc câu kéo thuyền chạy. Lão gò lưng, gập mình kéo lại. Từ trưa tới chiểu, rồi một ngày một đêm nữa trôi qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu bánh mì vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả nhưng lão không chịu buông tha: "Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!". Sang ngày thứ 3, cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6 - 7 tấn, dài hơn con thuyền câu của lão độ 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập đuổi theo chiếc thuyền câu, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài dùng mái chèo quật tới tấp vào đàn cá dữ trong đêm tối. Khi lão Xan-chi-a-gô về tới bến, con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Lão nằm vật ra lều ngủ thiếp đi, "mơ thấy đàn sư tử". Sáng hôm sau, bé Ma-nô-lín chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông lão.

3. Bố cục (2 phần)

- Phần 1 (từ đầu đến “nước bắn tung, trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền”): Cuộc chiến đấu của Xan-ti-a-gô
- Phần 2 (còn lại): Xan-ti-a-gô đưa con cá về bến

4. Giá trị nội dung

Hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc, dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Sự chuyển hóa bức tranh với những nét trần trụi, chân thực, giản dị sang một lớp nghĩa hàm ẩn, rộng lớn – đó chính là phong cách nghệ thuật của Hê-minh-uê và cũng chính là sự thể hiện nguyên lí sáng tác của ông: tác phẩm nghệ thuật như một “tảng băng trôi”.

5. Giá trị nghệ thuật

- Cách viết dung dị, lời văn có nhiều “khoảng trống”
- Hình tượng được lựa chọn kĩ lưỡng, mang tính biểu tượng và đa nghĩa
- Nghệ thuật độc thoại và độc thoại nội tâm

II. Trả lời câu hỏi

Câu 1 (trang 135 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Hình ảnh con cá kiếm được miêu tả lặp đi lặp lại mang nhiều hàm ý

Mặc dù cho thấy đã ba ngày hai đêm theo đuổi con cá kiếm nhưng ông lão chưa nhìn thấy con cá

+ Ông cảm nhận con cá qua sợi dây, qua vòng lượn từ rộng tới hẹp, từ gần tới xa, cho thấy ông lão giàu kinh nghiệm

+ Hình ảnh của con cá chính là khát vọng, hoài bão của con người, con người luôn theo đuổi ước mơ cua mình một cách bền bỉ


Câu 2 (trang 135 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Bằng sự nhạy bén của ông già nhiều năm kinh nghiệm, ông đã huy động mọi khả năng vào cuộc chiến

+ Về thị giác: phán đoán con cá thông qua đường bơi nghiêng, sức căng của sợi dây

+ Về xúc giác: Cảm nhận được từng cử động của nó qua sợi dây

+ Ông lão đâm trúng con cá, nó vụt lên khỏi mặt nước, phô hết vẻ khổng lồ, sức lực

→ Các chi tiết được sắp xếp theo trình tự cuộc chinh phục cá kiếm, từ quan sát, cảm nhận khi con cá cố vùng vẫy để thoát rồi sau đó tới gần hơn.


Câu 3 (trang 135 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Đoạn trích: ông lão cảm nhận con cá với cảm xúc của kẻ đi săn, muốn giết đối thủ nhưng lại con đối thủ như người xứng tầm, người anh em, cảm phục nó

+ Lời thoại thân mật với cá: đừng nhảy, cá ơi, tao chưa từng thấy … anh em ạ → Coi cá như con người

+ Chiêm ngưỡng con cá kiếm, vẻ đẹp của nó

+ Thán phục hành động chấp nhận cuộc chiến của nó ( làm đứt dây câu, hoặc lật thuyền)

- Mối quan hệ ông lão và con cá: đa chiều, phức tạp

+ Người đi câu – con mồi được câu

+ Hai đối thủ cân sức, cần tài

+ Hai người bạn chí cốt

+ Cái đẹp, người thưởng thức cái đẹp

+ Cách đối xử con người với môi trường


Câu 4 (trang 135 sgk ngữ văn 12 tập 2)

a. Con cá trước khi chết: Khổng lồ, đẹp: đuôi lớn hơi hai lưỡi hái lớn, màu tím hồng, thân hình đồ sộ

- Phẩm chất: khôn ngoan, kiên cường, chịu đựng…

→ Mang tầm vóc, vẻ đẹp, sự oai hùng, kì vĩ, duyên dáng

b. Con cá sau khi chết-

- Vẫn mang nét kiêu hùng:

+ Cố vùng vẫy, nhô lên phô diễn cái đẹp, không chấp nhận cái chết

+ Con cá trắng bạc, thẳng đơ, bồng bềnh trôi theo sóng

→ Vẫn kiêu hùng, kì vĩ


Luyện tập

Bài 1 (trang 135 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Ngoài việc miêu tả bằng lời kể chuyện, còn có nguồn gốc trực tiếp nói lên hành động và thái độ của ông lão trước con cá kiếm thì đó là ngôn ngữ đối thoại nội tâm của nhân vật Xan-ti-a-gô

- Ý nghĩa của lời phát biểu trực tiếp:

+ Người đọc hình dung được sự việc đang diễn ra trực tiếp

+ Hình thức đối thoại chứng tỏ Xan-ti-a-go chiêm ngưỡng được con cá kiếm như một con người

+ Vẻ đẹp của con người khi chinh phục, hoàn thiện giấc mơ của mình

→ Hình tượng ông lão và con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm

→ Hình tượng ông lão và con cá kiếm mang nghĩa biểu tượng, gợi lên triết lí tảng băng trôi của tác giả


Câu 2 (Trang 315 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Cách dịch ông già và biển cả tạo nên nhịp cân xứng của tiêu đề, không chỉ thế, tiêu đề này gợi lên cho người đọc sự đối lập của hai hình tượng:

+ Người già cả, sức yếu >< biển lớn, bao la, dữ dội

+ Con người có hạn >< tự nhiên vô hạn

+ Con người và tự nhiên song song cùng tồn tại

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

TRAN THI THU TRANG trang

208 chủ đề

2330 bài viết

0