31/03/2021, 14:53

Bài soạn "Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học" số 3 - 6 Bài soạn "Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học" lớp 12 hay nhất

1. Khái niệm: Ý kiến bàn về văn học là nhận định (khen hay chê) về tác giả, tác phẩm, văn học sử, lý luận văn học…. Nghị luận về ý kiến văn học là quá trình vận dụng nhiều thao tác lập luận như giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bình giải, so sánh, phản bác…để làm cho ...

1. Khái niệm:

Ý kiến bàn về văn học là nhận định (khen hay chê) về tác giả, tác phẩm, văn học sử, lý luận văn học….
Nghị luận về ý kiến văn học là quá trình vận dụng nhiều thao tác lập luận như giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bình giải, so sánh, phản bác…để làm cho người đọc, người nghe hiểu sâu ý kiến ở nhiều góc độ khác nhau.

2. Tìm hiểu đề và lập dàn ý

Đề bài: Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: "Nhìn chung văn học Việt Nam phong phú, đa dạng; nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, quán thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước".

(Dẫn theo Trần Văn Giàu, tuyển tập, NXB Giáo dục 2001)

Tìm hiểu đề:

Ý nghĩa của các từ ngữ:
Phong phú, đa dạng: có nhiều tác phẩm với nhiều hình thức, thể loại khác nhau.
Chủ lưu: dòng chính (bộ phận chính), khác với phụ lưu, chi lưu.
Quán thông kim cổ: thông suốt từ xưa đến nay.
Nội dung của nhận định nêu ở đề bài: Văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm với nhiều hình thức và thể loại khác nhau, nhưng bộ phận chính thông suốt từ xưa đến nay là văn học yêu nước.
Yêu cầu về phương pháp: Giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bình luận.
Yêu cầu về tư liệu: Các tác phẩm văn học Việt Nam.
Lập dàn ý:

Mở bài:

Dẫn dắt vào đề : VHVN phong phú, đa dạng với hai đề tài lớn là yêu nước và nhân đạo.
Trích dẫn ý kiến của Đặng Thai Mai.
Thân bài:

Giải thích nội dung ý kiến:
Đánh giá: Ý kiến hoàn toàn đúng:
Cuộc sống con người Việt Nam phong phú, đa dạng -> văn học phản ánh -> phong phú, đa dạng.
Chứng minh:
Văn học miêu tả, thể hiện, đánh giá thiên nhiên, con người, xã hội dưới nhiều góc độ, tình cảm (cảm thương, ca ngợi, phê phán, lên án, tố cáo, chê cười, giáo huấn)
Bằng nhiều bút pháp: ngụ ngôn, huyền thoại, cường điệu, trữ tình, hiện thực, lãng mạn...
Nhiều tác phẩm với nhiều hình thức thể loại (VHDG gần 10 thể loại, VH viết gần như đầy đủ)
Lịch sử dân tộc Việt Nam -> chống nhiều thế lực ngoại xâm -> văn học cổ vũ -> văn học yêu nước.
Chứng minh:
VHDG: ca dao, truyền thuyết... ca ngợi phong cảnh, anh hùng cứu nước
VH viết: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Đại cáo bình Ngô, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Tuyên ngôn độc lập, …
Thể loại phong phú, đa dạng: thơ, cáo, hịch, văn tế, văn xuôi, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp…

Kết bài:
Khẳng định chung về ý kiến: Là người Việt Nam, cần nắm hoàn cảnh lịch sử đất nước và đặc điểm dân tộc.
Giá trị của ý kiến: Giúp ta nhìn rõ và khắc sâu điều đó


Ghi nhớ:

Đối tượng nghị luận về một ý kiến bàn về văn học rất đa dạng: Về văn học sử, về lí luận văn học, về tác phẩm văn học…
Việc nghị luận về một ý kiến bàn về văn học thường tập trung và giải thích, nêu ý nghĩa và tác dụng của ý kiến đó đối với văn học và đời sống.


Luyện tập

Câu 1: Bình luận ý kiến sau đây của nhà văn Thạch Lam về văn chương:...

Bình luận ý kiến sau đây của nhà văn Thạch Lam về văn chương: Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Trả lời:

Lập dàn ý:

a. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Thạch Lam.
Trích dẫn ý kiến của Thạch Lam về chức năng của văn học.
b.Thân bài:

Giải thích về ý nghĩa câu nói: Thạch Lam nêu lên chức năng to lớn và cao cả của văn học.
Bình luận và chứng minh ý kiến: Đó là một quan điểm rất đúng đắn về giá trị văn học:
c: Kết bài:

Khẳng định sự đúng đắn và tiến bộ trong quan điểm sáng tác của Thạch Lam.
Nêu tác dụng của ý kiến trên đối với người đọc:
Hiểu và thẩm định đúng giá trị của tác phẩm văn học.
Trân trọng, yêu quý và giữ gìn những tác phẩm văn học tiến bộ của từng thời kỳ.


Bài mẫu:

Có lẽ Thạch Lam đã suy nghĩ đúng khi ông khẳng định “...Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên”. Thoái li, đây là một cách xa rời cuộc sống, làm tươi mát cho cuộc sống để con người hiểu được hơn về cuộc sống mình đang sống và từ đó cố gắng làm cho cuộc sống tốt hơn lên. Đối với con người thì có rất nhiều cách yêu cuộc sống, ở người này yêu bằng một cách, ở người kia lại yêu băng cách khác.


Thạch Lam không muốn người đọc có thể tìm thấy một chút nào sự chán chường muốn xã rời hiện thực, quên cuộc sống trong tác phẩm văn chương của ông. Không dẫm vào con đường của các nhà văn lãng mạn (dù Thạch Lam cũng là nhà văn lãng mạn, hơn nữa lại là một trong những người chủ chốt của nhóm Tự Lực Văn Đoàn) theo con đường tìm đến cõi quên, mà Thạch Lam lại muốn hướng dòng văn của mình chảy về hướng ngược lại, hướng trở về cuộc đời thực. Quan niệm của ông là như thế và chính các tác phẩm của ông cũng chứng tỏ rất rõ điều đó trong một số tác phẩm của mình, những tác phẩm gần gũi với hiện thực chiếm hầu như đa số. Văn chương Thạch Lam không nói những gì cao xa mà đều là những mảnh đời thường dung dị và rất thân quen.


Nhưng nếu văn chương không “đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên” thì văn chương phải là như thế nào ? Đó cũng chính là vấn đề trọng tâm mà Thạch Lam nêu lên. “ Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.


Quan niệm này rất đúng, văn chương cần thế và phải thế. Đó chính là sức mạnh của văn chương nếu nhà văn nào biết tận dụng triệt để. “Thứ khí giới thanh cao và đắc lực” ở đây không phải để chỉ các súng ống, gậy gộc mà chúng ta thường gọi là vũ khí, mà chính là sức mạnh cùa ngòi bút nhà văn, sức sống phá mãnh liệt của văn chương. Từ xưa, văn chương luôn tiềm ẩn một sức mạnh lo lớn mà nếu ai biết “điểm trúng huyệt”. Có thể làm lung lay những thành trì vững chãi nhất. Nhưng ở đây, những “khí giới thanh cao và đắc lực”, có nghĩa văn chương là một thứ vũ khí cao thượng và rất trong sạch, không phải là thứ vũ khí tầm thường có thể sử dụng vào bất cứ mục đích nào, dù mục đích ấy có xâu xa đến đâu cũng mang lại kết quả. Không, không thể thế. Ê-luya đã từng nói “Nhà văn là người có ích nhất trong cộng đồng của mình”. Do đó không thể đem văn chương làm một thứ vũ khí phi nghệ thuật. Nhà văn phải dùng văn chương “thứ khí giới thanh cao và đắc lực” để “tố cáo và thay đổi một thế giới dối trá và tàn ác”.


Đó chính là mục đích chân chính của văn chương. Vãn chương đem đến cho con người lòng yêu cuộc sống, gần gũi với cuộc sống. Nhưng văn chương cũng có nhiệm vụ tố cáo, cải tạo cuộc sống, xã hội cũ đề loại bỏ cái xấu xa, tàn ác mà trở về với cái tốt đẹp. Văn chương không đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên lãng, tức là văn chương khuyên con người hãy trở về thực tại. Văn chương cũng phải biết dùng sức mạnh của thứ vũ khí thanh cao của mình để giúp con người được sống trong một xã hội tốt đẹp. Hai nhiệm vụ ấy tưởng như không quan hệ với nhau mà thực ra liên quan rất chặt chẽ. Đã thực hiện nghĩa vụ này thì nghĩa vụ kia văn chương cũng không thể từ bỏ. Có rất nhiều tác phẩm của các nhà văn đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ "tố cáo và thay đổi cái thế giới gian dối và tàn ác” ấy. Trong Những người khốn khổ. Vichto Huygô cũng không ngần ngại khi sử dụng hết sức mạnh “như bom đạn" của ngòi bút để tố cáo thật quyết liệt cái xã hội Pháp “giả dối và tàn ác”, cái xã hội đã đày đoạ những con người tốt đẹp như Giăng Van - giăng, Côdét vào sự đau khổ, sự khốn cùng. Lép Tônxtôi, qua Anna Karerina, cũng lên án mạnh mẽ xã hội Nga Hoàng đã cướp đoạt hạnh phúc và đẩy những người phụ nữ đáng thương, khát khao hạnh phúc như Anna vào cái chết không thể cứu vãn được.


Qua vũ khí “thanh cao và đắc lực” của mình,văn chương không chỉ tố cáo xã lội, mà qua sự tố cáo, văn chương còn hướng tới mục đích cao cả là “thay đổi” cái xã hội ấy : nghĩa là văn chương không phải tố cáo cốt để dìm sâu “cái thế giới giả dốì và tàn ác” xuống vũng bùn đen, mà phải tìm cách nâng cái thế giới ấy lên, gạn lại những bản chất của nó để từ đó phát triển lên. Sự thay đổi ấy, văn chương không thể tự đảm nhiệm được, nhưng văn chương cũng đóng góp một phần quan trọng vào quá trình thay đổi những nét giả dối và tàn ác của cái tã hội tàn bạo đầy cá thế lực đen tối. Ta có thể thấy rất rõ rằng các tác phẩm của các nhà văn, trong đó có cả Thạch Lam, ngoài mục đích tố cáo xã hội ra, còn hướng người đọc đến niềm tin “cái thế giới giả dối và tàn ác” trong tương lai sẽ thay đổi, do lược lượng này hoặc lực lượng khác, và sẽ trở nên tốt đẹp. Nhưng những điều này, ta sẽ không tìm thấy được ở các tác phẩm của các nhà văn lãng mạn như Khải Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, bởi vì các quan niệm văn chương của những nhà tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn ấy khác với quan niệm của Thạch Lam, một nhà văn đã khá gần với các nhà văn hiện thực đương thời.


Văn chương không chỉ cốt dùng vũ khí của mình để thay đổi và tố cáo xã hội, mà văn chương còn phải “làm cho lòng người đọc được thêm trong sạch và phong phú hớn”. Quan niệm này hoàn toàn đúng . Đây chính là cái cao cả nhất mà văn chương chân chính muốn vươn tới và cũng chính là một trong các chức năng của văn học: chức năng giáo dục .Bản thân con người luôn luôn vươn tới sự toàn vẹn của chân, thiện, mĩ. Quá trình vươn lên này của con người có nhiều yếu tố khác giúp sức, trong đó một yếu tố khá quan trọng là văn chương, văn chương làm “lòng người được thêm trong sạch và phong phú", có nghĩa là văn chương đã giúp cho những tình cảm trong tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn, đẹp đẽ hơn, cao thượng hơn và dồi dào hơn. Đối tượng phục vụ của văn chướng chính là con người, do đó những tác phẩm có giá trị nhất là những tác phẩm phục vụ đắc lực cho con người, giúp cho con người “người” hơn.


Lênin đã từng nói: “Không có tình cảm thì sẽ không bao giờ và không thể có sự tìm tòi của con người và chân lý”. Chính văn chương đã làm giàu thêm tình cảm con người. Văn chương cũng giáo dục con người tìm những cái tốt đẹp những phẩm chât trong sáng, từ đó giúp con người nhận thức được chính bản thân và cố gắng hoàn thiện mình. Từ xưa đến nay, văn chương luôn tìm cách giáo dục con người. Ngô Thì Nhậm đã từng nói đại ý: văn phải ngăn ngừa điều xấu, khuyến khích điều hay, đó mới chính là giá trị xác thực của văn chương. Nhà văn Nam Cao cũng đã từng nói ý này : Một tác phẩm hay phải là một tác phẩm mang tính công bình, lòng bác ái giúp cho người gần người hơn. Đó là những quan niệm rất đúng đắn. Nó góp phần khẳng định tính chất xác đáng trong quan niệm của Thạch Lam.


Những nội dung mà các tác phẩm văn chương giá trị đều giúp cho con người có ý thức nhìn nhận lại mình, phát hiện những mặt tốt, từ đó cố gắng sửa chữ những mặt xấu, phát huy mặt tốt để làm cho mình trở thành con người toàn diện. Trong truyện “Sợi tóc”, Thạch Lam miêu tả một cuộc đấu tranh nội tâm rất gay gắt cùa nhân vật chính khi đứng trước ranh giới của vùng sáng lương thiện và bóng tối tội lỗi của sự ăn cắp. Cuối cùng, nhân vật đã chiến thắng bản chất xấu xa, thấp hèn của mình để bước hẳn ra vùng sáng lương thiện. Rõ ràng người đọc sẽ tự suy ngẫm còn những người còn những suy ngẫm lường gạt, lừa dối sẽ thấy lĩnh ngộ trong lương tâm, từ đó sẽ hướng lới những điều trong sáng hơn.


Hoặc trong những tác phẩm đầy chất thơ của Thạch Lam Gió đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan. Đứa con đầu lòng, người đọc sẽ cảm nhận ở nơi đó nhiều tình cảm mới lạ, êm đềm tựa cánh bướm non . Tâm hồn của mọi người sẽ trở nên dạt dào,tràn trề cảm xúc. Họ càng thấy yêu hơn cặp trai gái trong truyện, mến hơn đôi vợ chồng trẻ và những đứa trẻ. Từ những tình cảm ấy, họ sẽ cảm thấy gần gũi, cảm thông nhau hơn.


Tóm lại, trong hầu hết các tác phẩm của nhà văn chân chính, trong đó có cả các nhà văn lãng mạn. Vì vậy, các tác phẩm của ông đều nhằm vào mục đích ấy. Đi theo con đường riêng của mình. Thạch Lam có thể tự hào vì ông đã đế lại một số lượng tác phẩm có giá trị, vừa đậm đà những tình cảm tha thiết vừa mang tính hiện thực khá sâu sắc. Với quan niệm ấy, ông không hẳn là một nhà văn lãng mạn nhưng cũng không phải là một nhà văn hiện thực phê phán. Các nhà văn lãng mạn không có những tác phẩm mà trong đó văn chương được sử dụng như là “ một thứ khí giới thanh cao và đắc lực" để “tó cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác" các tác phẩm của họ thường đề cập đến tình yêu, đem sự giải phóng cá nhân, thảng hoặc có một vài nhà văn lãng mạn đi lệch sang một đề tài khác như Lan Khai với tác phẩm “Lẩm than" ... Những cái đó cũng chỉ là sự vượt biên chút ít, sau đó rồi cũng quay về với đề tài cũ. Còn các nhà văn hiện thực phê phán thì chỉ dùng tác phẩm của minh để “tố cáo” cái xã hội “ giả dối và tàn ác” là xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời chứ chưa có một hướng nào đó để thay đổi cái xã hội ấy tốt đẹp hơn lên.


Tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán thường có một kết thúc bế tắc, không có lối thoát. Đó chẳng qua do nhận thức chưa đến độ chín, có nghĩa là các nhà văn ấy chưa nhìn thấy rõ ràng tương lai, chưa hướng văn chương vào mục đích tốt đẹp, có hiệu quả nhất. Nhưng nói thế nào cũng không có nghĩa là chỉ riêng một mình Thạch Lam quan niệm đúng về văn chương và nhìn thấy rõ được tương lai. Quan niệm về văn chương là văn chương phải “thay đổi” cái thế giới, chủ yếu do tính nhân đạo của ông. Ông không muốn nhìn thấy cái xã hội dối lừa, độc ác, bạo tàn. Do vậy ông luôn có ý muốn cho tác phẩm của mình, cho nhân vật của mình thoát ra những cái xấu xa để bươn tới sự tốt. Đây cũng là một suy nghĩ tốt đẹp của Thạch Lam. nhưng đâu phải dễ dàng một sớm một chiều thay đổi, ví như cái xã hội thực dân bạo tàn kia, sau này phải nhờ cách mạng mới có thể lật đổ và thay đổi được.


Dù sao, quan niệm về văn chương của Thạch Lam là một quan niệm rất đúng. Nó khái quát lại một số trong những tác dụng và giá trị đích thực của văn chương. Văn chương ngày nay cũng phải phát huy thật triệt để những chức năng của mình, đồng thời phải góp phần thay đổi xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.


Câu 2
: Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết:...

Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết: "Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh". Hãy bày tỏ ý kiến đối với nhận định trên.

Trả lời:

Nhà phê bình Hoài Thanh khi nhận định về thơ Tố Hữu có viết: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”. Nhận định của nhà thơ rất đúng với cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Với nhà thơ Tố Hữu thơ ca và đời sống không hề mâu thuẫn với nhau, sống là hành động, mà thơ cũng là hành động. Thơ của Tố Hữu là hình thức tươi đẹp của hoạt động cách mạng, của đời sống.


Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca Việt Nam, nhà thơ có phong cách độ đáo: Trữ tình chính trị. Những đặc điểm của phong cách ấy đã in đậm trên từng tác phẩm, và con đường cách mạng của ông. Tố Hữu trước hết là một chiến sỹ yêu nước, ông lấy lý tưởng cộng sản để làm cảm hứng cho các sáng tác của mình. Vì vậy, với ông thơ trước hết phải là phương tiện đắc lực phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho những nhiệm vụ chính trị được hình thành trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Với ông, thơ chính trị đã trở thành thơ trữ tình sâu sắc.


Lý tưởng cộng sản chính là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo trong thơ Tố Hữu. Nó chi phối từ quan niệm nghệ thuật đến đề tài, chuyển đề, cảm xúc và cả các hình tượng nhân vật trữ tình. “Với Tố Hữu tả cảnh hay tả tình, khóc mình hay khóc người, viết về vấn đề lớn hay nhỏ đều là để nói cho hết cái lý tưởng cộng sản ấy thôi” – Chế Lan Viên.

Nếu như trong tập thơ “Từ ấy” chúng ta thấy lý tưởng cộng sản được thể hiện thật đẹp đẻ sinh trong hình ảnh mặt trời chân lý và cảnh ngày mai tương sáng. Sự giác ngộ cách mạng mang lại cho nhà thơ một cảm hứng lãng mạn, xây dựng nên một hình tượng trữ tình mới – người thanh niên cộng sản:


“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”


Con đường sự nghiệp văn chương của ông gắn liền với cách mạng. Mỗi thời khắc lịch sử của dân tộc đều được ông lấy làm cảm hứng sáng tác trong thơ ca của mình. Đọc thơ ca của ông chúng ta có thể thấy sự đổi thay của cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Lý tưởng cộng sản của ông cũng dần được định hình rõ nét qua từng tác phẩm tạo nên dấu ấn riêng mình. Ở tập thơ “ Gió lộng” viết năm 1955 -1961 lý tưởng cộng sản được Tố Hữu thể hiện ở hai mảng đề tài và đây cũng là hai nhiệm vụ lớn lao của cách mạng . Một là xây dựng CNXH ở miền Bắc và giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

“ Yêu biết mấy những con người đi tới


Hai cánh tay như hai cánh bay lên

Ngực dám đón những phong ba bão táp

Chân đạp bùn không sợ các loài sên”

Hướng về miền Nam ruột thịt tác giả cũng dành những vần thơ nói lên nỗi đau của những anh em bị thảm sát:

“ Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết

Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết

Cả nghìn người, trong một trại giam

Của một nhà tù lớn: Miền Nam!”


Thơ ca của Tố Hữu chủ yếu khách thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất nước từ con đường hoạt động cách mạng của bản thân. Nhưng Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị bằng tất cả sự nhiệt huyết của một trái tim cảm xúc. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ buổi đầu là cái tôi chiến sỹ nhưng theo năm tháng càng về sau cái tôi ấy càng nhân danh cách mạng, nhân danh dân tộc. Ông đã dành cả cuộc đời mình cho cách mạng cho dân tộc và chính bằng trái tim nhiệt huyết đầy yêu thương của mình.


“Chỉ là một giữa loài người đau khổ

Vứt trong lồng con giữa một lồng to

Chuyển đời quay theo tiếng gọi tự do

Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu”


Tính chính trị trữ tình trong thơ Tố Hữu tạo nên khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc, cộng đồng chứ không phải vấn đề cá nhân. Nói đúng hơn số phận cá nhân hòa số phận dân tộc, cộng đồng. Thơ ông dạt dào cảm hứng lãng mạn hướng về lý tưởng cộng sản và tương lai xã hội chủ nghĩa. Thể hiện cuộc sống cảm quan ấy, thế giới hình tượng trong thơ Tố Hữu là thế giới cao cả, lý tưởng của anh sáng, gió lộng, niềm tin.

Bài thơ Việt Bắc là bài thơ thể hiện rõ nét nhất lý tưởng cộng sản, con đường cách mạng cũng như tính dân tộc, sử thi trong thơ ca ông. Những câu thơ lục bát truyền thống của dân tộc vốn mềm mại, uyển chuyển lại thể hiện chất hùng tráng mạnh mẽ. Những câu thơ rất lãng mạn, tạo nên vẻ đẹp lý tưởng của cả một dân tộc anh hùng. Ở đó thể hiện tư thế kỳ vĩ, ngạo nghễ của những người anh hùng được hòa quyện trong nét đẹp bình dị, thân thiết:


“Những đường Việt Bắc của ta

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

Khí thế hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến đã được tái hiện sinh động trong những dòng thơ đậm chất sử thi. Hình ảnh có sức khái quát lớn lao, giúp người đọc hình dung được rừng cây núi đá cùng con người đứng lên kháng chiến. Núi là lũy sắt, rừng là trận địa để che bộ đội, để vây quân thù. Hình ảnh có khả năng tái hiện hiện thực cuộc kháng chiến gian khổ, anh hùng của dân tộc, làm nổi bật tinh thần quyết chiến, quyết thắng khát vọng cứu nước, cứu nhà và lòng căm thù giặc sục sôi của con người. Câu thơ ” Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” cân xứng về ý tứ, nhịp điệu vừa lãng mạn vừa hào hùng vừa làm ngời sáng khí phách của đoàn quân ra trận, của cả một dân tộc cùng ánh hào quang rực rỡ của lý tưởng, khát vọng chiến thắng.


Thơ Tố Hữu còn có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng điệu tâm tình là tiếng nói của tình thương mến. Như nhà thơ Chế Lan Viên nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt Bắc đã sử dụng thể thơ lục bát cùng cách đối đáp giao duyên ngọt ngào thiết tha cùng cặp đại từ nhân xưng “minh, ta” nhịp nhàng sánh đôi.


Việc khẳng định phong cách thơ trữ tình chính trị đã đưa Tố Hữu lên vị trí trang trọng trong nền thơ ca dân tộc. “Thời đại anh hùng đòi hỏi những lời lẽ anh hùng”. Khí thế oai hùng của những ngày chiến đấu đã dội vào thơ anh, in dấu trong thơ Tố Hữu những nét không thể phai nhạt. Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh viết:”Thái độ toàn tâm toàn ý với lý tưởng cách mạng đã mang đến sự thành công trong sự nghiệp thơ ca của anh”.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Nguyễn Mỹ Hương

187 chủ đề

43907 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0