18/06/2018, 11:30

28 - 11 - 1820: Ngày sinh Ăng-Ghen

Phơrêđơrích Ăng-ghen (Friedrich Engels) là người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người bạn chiến đấu của Các Mác. Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 trong một gia đình chủ xưởng ở thành phố Barơmen (miền Rênani, nước Đức). Theo ý nguyện của người cha là đào tạo Ăngghen thành một nhà kinh doanh ...

Phơrêđơrích Ăng-ghen (Friedrich Engels) là người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người bạn chiến đấu của Các Mác.

Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 trong một gia đình chủ xưởng ở thành phố Barơmen (miền Rênani, nước Đức). Theo ý nguyện của người cha là đào tạo Ăngghen thành một nhà kinh doanh thành thạo và giàu có, ông phải bỏ dở việc học ở trường trung học đểvề làm thư ký hãng buôn. Công việc tẻ ngắt và đầy dối trá đó làm cho ông căm phẫn: "Cái làm cho tôi ghê tởm nhất chẳng những là phải làm một nhà tư sản, mà lại còn phải làm một người chủ xưởng, một anh tư sản tích cực dự phần chống lại giai cấp vô sản" (thư gửi Mác).

Năm 1841, ông vào quân đội, đóng ở Béclin. Bên cạnh việc tập luyện, ông chú ý nghiên cứu về lý thuyết quân sự và đi nghe những buổi thuyết trình triết học ở trường đại học. Cuối năm 1842, ông sang Anh và sống ở thành phố công nghiệp Dệt Man-chet-xtơ. Không chịu sự ràng buộc của gia đình muốn ông thành chủ xưởng, Ăng-ghen quyết định đi sâu tìm hiểu đời sống của những người lao động. Ông nói với công nhân: "Tôi muốn thăm các bạn ngay trong nhà các bạn, muốn xem xét cuộc sống hằng ngày của các bạn,

nói với các bạn về điều kiện sinh hoạt và nỗi đau khổ của các bạn. Tôi muốn chứng kiến cuộc đấu tranh của các bạn chống lại quyền lực xã hội và chính trị của những kẻ áp bức các bạn". Ba năm sau, công trình nghiên cứu của Ăng-ghen ra đời "Tình cảm giai cấp công nhân Anh". Bằng những chứng cớ sinh động của cuộc sống và những tài liệu phong phú của chính quyền tư sản Ăng-ghen đã vẽ lên bức tranh hiện thực của cuộc đời những người lao động. Qua đó, ông được coi là người đầu tiên phát hiện sứ mạng lịch sử vĩ đại của giai cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh giải phóng lao động, xây dựng xã hội mới không có áp bức bóc lột.

Cùng thời gian đó, ông công bố "Góp phần phê phán chính trị kinh tế học" (1844), Mác coi đó là một tác phẩm thiên tài về khoa học chính trị kinh tế học của giai cấp vô sản.

Cuối tháng 8-1844, Ăng-ghen gặp Mác ở Pari. Cuộc gặp gỡ mười ngày đó đã mở đầu cho một thời kỳ cộng tác lâu dài giữa hai người trong sự nghiệp đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản. Hai ông đã hoàn toàn nhất trí với nhau về những vấn đề được đưa ra thảo luận. Hai ông đã viết chung cuốn "Gia đình thần thánh" và "Hệ tư tưởng Đức" nhằm phê phán triết học của phái Hê-ghen và phái Phơ-bách để đặt cơ sở cho triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Trong khi miệt mài nghiên cứu lý luận, Ăng-ghen cùng với Mác đã bắt liên lạc với phong trào công nhân các nước, chú ý đi vào thực tiễn đấu tranh. Năm 1847, hai ông tham gia tổ chức "Liên đoàn những người cộng sản" và theo đề nghị của Đại hội hai ông khởi thảo "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Cuốn "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" xuất bản lần đầu tiên vào tháng 2-1848 bằng tiếng Anh ở Luân Đôn. Đó là một văn kiện có tính chất cương lĩnh đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế. Văn kiện đó ra đời khi các tác giả của nó là Các Mác 30 tuổi và Ăng-ghen mới 28 tuổi. 130 năm đã qua, thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng đã xác nhận tính khoa học chính xác và ý chí cách mạng tiến công của những nguyên lý được đề ra trong Tuyên ngôn.

Tháng 2-1848, cách mạng bùng nổ ở Pháp rồi lan sang Đức và nhiều nước Châu Âu. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Mác và Ăng-ghen trở về Đức, xuất bản tờ "Báo Rê-na-ni mới". Trên những trang báo này, Ăng-ghen kêu gọi nhân dân Đức kiên quyết đấu tranh chống chế độ nông nô và chế độ chuyên chế phong kiến, vạch trần sự phản bội của giai cấp tư sản Đức và tính không triệt để của những người dân chủ tiểu tư sản. Ăng-ghen cùng với Mác kiên quyết bảo vệ chủ trương đấu tranh cho một nước Đức cộng hòa, dân chủ và thống nhất. Tháng 5-1849, Ăng-ghen trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa nhân dân vũ trang ở Tây Nam Đức. Sau khi bị đàn áp, ông cùng với nghĩa quân dời sang Thụy Sĩ và sau đó, ông trở về Luân Đôn gặp gỡ Mác.

Trong hai chục năm (1850-1870), Ăng-ghen sống ở Man-chet-xtơ. Ông viết nhiều bài tổng kết kinh nghiệm cuộc cách mạng vừa qua ở Đức ("Cách mạng và phản cách mạng ở Đức"). Ông đi sâu nghiên cứu về kinh tế chính trị học và giúp đỡ Mác rất nhiều trong việc biên soạn bộ "Tư bản". Ông viết những bài quan hệ quốc tế, về nghệ thuật quân sự và về nhiều vấn đề khác. Qua những công trình của mình, Ăng-ghen đã thể hiện một sự hiểu biết rộng lớn, một tầm nhìn sâu sắc, một khả năng nhận định thiên tài trên nhiều lĩnh vực khoa học và cuộc sống. Mác rất tự hào khi gọi người bạn mình là một bộ "Bách Khoa". Ông đã trả lời một cách nghiêm túc, đầy đủ và cặn kẽ mọi vấn đề do Mác đặt ra. Ông sử dụng gần 20 thứ tiếng nước ngoài, nói thành thạo 12 thứ, bao gồm các ngôn ngữ chính và nhiều ngôn ngữ địa phương.

Ăng-ghen luôn luôn gần gũi với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong những ngày khó khăn của cách mạng, ông vẫn giữ vững sợi dây liên lạc với những người lãnh đạo công nhân các nước. Tham gia Quốc tế thứ nhất, ông cùng với Mác đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng phi vô sản. Ông nhiệt liệt ủng hộ và tích cực giúp đỡ các chiến sĩ Công xã Pari (1871).

Trong những năm 70 và 80 của thế kỷ XIX, nhiều đảng công nhân được thành lập. Để bảo vệ đường lối chủ nghĩa Mác, Ăng-ghen viết tác phẩm quan trọng: "Chống Đuy-rinh" (1877) nhằm chống lại những quan điểm tiểu tư sản có tính chất cơ hội chủ nghĩa. Ông tổng kết những tài liệu về khoa học tự nhiên, phân tích trong tác phẩm xuất sắc: "Phép biện chứng của tự nhiên".

Năm 1883, Các Mác qua đời, Phơ-rê-đơ-rích Ăng-ghen phải đảm nhận trách nhiệm vẻ vang và nặng nề trong việc lãnh đạo giai cấp vô sản quốc tế. Ông nhận trách nhiệm hoàn thành và xuất bản công trình đồ sộ "Tư bản" của Mác. Ông cho xuất bản quyển II (1885) và quyển III (1894). Trong hơn một chục năm trời miệt mài cho trọn bộ "Tư bản","Ăng-ghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăng-ghen cũng không ngờ là đã khắc tên mình bên cạnh tên Mác bằng những dòng chữ không bao giờ phai mờ được" (Lênin). Là con người hết mực khiêm nhường, Ăng-ghen thường nói "Khi Mác còn sống, tôi vẫn là một cây đàn vi-ô-lông thứ hai bên cạnh Mác". Song, mối tình thân ái của ông đối với Mác lúc còn sống và lòng kính mến của ông đối với Mác lúc đã mất thật là vô hạn!

Năm 1844, Ăng-ghen đã viết xong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", "Lút-vích Phơ-bách và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức" (1888). Trong những năm cuối đời mình, Ăng-ghen đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa trong phong trào công nhân. Trong các đại hội của Quốc hội thứ hai, ông đã giành được thắng lợi trong việc đấu tranh thông qua những quyết nghị mác-xít như khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ, tổ chức ngày Quốc tế Lao động 1.5, xác nhận tính tất yếu của chuyên chính vô sản và thắng lợi của cách mạng vô sản.

Trong lá thư gửi bạn viết hồi cuối năm 1844, Ăng-ghen tỏ ý hy vọng mình sẽ sống năm thứ 75 một cách khỏe khoắn hơn, ít lo ngại hơn và ham làm việc. Nhưng đó lại chính là lúc bệnh tật hiểm nghèo đang đục ruỗng cơ thể ông. Đến 11 giờ đêm ngày 5 tháng 8 năm 1895, Ăng-ghen qua đời.

Ph. Ăng-ghen, người thầy vĩ đại của chủ nghĩa cộng sản, người chiến sĩ kiên cường của giai cấp vô sản, người đồng chí trung kiên cường của giai cấp vô sản, người đồng chí trung kiên và người bạn hết mực khiêm nhường của Các Mác mãi mãi sống trong lòng giau cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới.

0