18/06/2018, 17:09

Vài sự kiện về bức chân dung vua Quang Trung do họa sĩ nhà Thanh vẽ

Bức Chân dung do họa sĩ cung đình nhà Thanh vẽ năm 1790 Nguyễn Duy Chính Theo sử liệu nước ta thì vua Quang Trung khi sang dự lễ khánh thọ có được vua Càn Long ban cho một bức vẽ mà sau này nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng tấm hình một võ tướng mặc nhung phục, mũ đâu mâu, cưỡi ngựa ...

vua quang trung

Bức Chân dung do họa sĩ cung đình nhà Thanh vẽ năm 1790

Nguyễn Duy Chính

Theo sử liệu nước ta thì vua Quang Trung khi sang dự lễ khánh thọ có được vua Càn Long ban cho một bức vẽ mà sau này nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng tấm hình một võ tướng mặc nhung phục, mũ đâu mâu, cưỡi ngựa tay cầm roi là chân dung vua Quang Trung, hay kỹ hơn thì viết là giả vương Phạm Công Trị được họa gia nhà Thanh truyền thần khi qua triều kiến vua Càn Long. Thực ra, bức tranh này là mô phỏng từ hình vua Càn Long chuẩn bị duyệt binh hiện tàng trữ tại Viện Bảo tàng Bắc Kinh.(1) Sai lầm này đến nay vẫn còn nhiều người ngộ nhận

MỞ ĐẦU

Theo sử liệu nước ta thì vua Quang Trung khi sang dự lễ khánh thọ có được vua Càn Long ban cho một bức vẽ mà sau này nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng tấm hình một võ tướng mặc nhung phục, mũ đâu mâu, cưỡi ngựa tay cầm roi là chân dung vua Quang Trung, hay kỹ hơn thì viết là giả vương Phạm Công Trị được họa gia nhà Thanh truyền thần khi qua triều kiến vua Càn Long. Thực ra, bức tranh này là mô phỏng từ hình vua Càn Long chuẩn bị duyệt binh hiện tàng trữ tại Viện Bảo tàng Bắc Kinh.(1) Sai lầm này đến nay vẫn còn nhiều người ngộ nhận.

Về việc vua Quang Trung được tặng cho một bức vẽ, ít nhất cũng xuất hiện trên ba tài liệu Việt Nam tuy ở ba thời kỳ khác nhau nhưng có lẽ cũng từ một nguồn là Quốc Sử Quán triều Nguyễn, được chép lại với ít nhiều sai biệt:

1. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện (大南正編列傳) Sơ Tập có tiểu chú:

… Khi đến dưới bệ để từ biệt về nước, vua Thanh vời đến gần bên chỗ ngồi, thân mật vỗ vai an ủi phủ dụ ôn tồn, sai họa công vẽ hình mà ban cho…(2)

2.  Hoàng Lê Nhất Thống Chñ (皇黎一統志) [Ngô Gia văn phái]:

… lại tiến thêm hai con voi đực, trên đường đi người Thanh phục dịch vất vả, trong ngoài ai cũng biết là giả nhưng không dám nói. Đến khi vào kinh, vua Thanh rất mừng, tưởng là Quang Trung thật nên lúc nhập cận [vào triều kiến] cho cùng ngồi ăn yến với các thân vương, lại gia ân làm lễ ôm gối, thân thiết như cha con trong nhà. Đến khi bái tạ để về nước, [Thanh đế] lại sai thợ vẽ truyền thần ban cho, ân lễ hậu hĩ, ra ngoài các cách thức từ nghìn xưa đến giờ(3).

3. Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu (越史綱目節要) chép:

… khi vào chầu, vua Thanh cho cùng dự yến với các vương, lại gia ân, cho làm lễ ôm gối. Khi về nước, vua Thanh sai thợ vẽ họa chân dung mình ban cho.(4)

CHÂN DUNG VUA CÀN LONG HAY VUA QUANG TRUNG?

Theo hai tài liệu trên văn từ khá rõ rằng hình vẽ đây là vua Quang Trung, vẽ xong ban lại cho nước ta. Trái lại, theo cách chép của tiến sĩ Đặng Xuân Bảng thì bức tranh là một hình vẽ vua Càn Long chứ không phải hình vua Quang Trung [ngự dung tức là hình vua Càn Long vì nho sĩ triều Nguyễn không thể dùng chữ ngự là chữ tôn kính để gọi Nguyễn Huệ]. Một chi tiết nhỏ như thế, trong khoảng thời gian chưa lâu đã có sự sai biệt khiến cho người nghiên cứu không thể không cẩn trọng khi sử dụng các loại tài liệu thứ cấp (secondary sources). Nếu ba tài liệu trên được biên soạn độc lập thì chúng ta thấy có hai sự kiện hoàn toàn khác nhau:

– Vua Quang Trung xin một bức ngự dung vua Càn Long để đem về.

– Vua Càn Long sai thợ vẽ hình vua Quang Trung.

 I. Nguyễn Huệ xin một bức chân dung vua Càn Long

Trong tài liệu bang giao của Tây Sơn với nhà Thanh của nước ta còn giữ được có một bức thư vua Quang Trung nhờ Phúc Khang An xin một bức hình vua Càn Long để đem về treo nguyên văn sau đây:

Thiếp trình Hòa Trung Đường nhờ Phúc công gia [tức Phúc Khang An] xin hình hoàng đế.

Kẻ phiên nhỏ này từ nơi hoang sơ vào chầu, may mắn được đại hoàng đế rủ lòng thương, coi thân thiết như cha con một nhà, tấm lòng nhỏ bé thật là cảm kích, vui sướng không đâu cho hết.

Suy nghĩ vò đầu bứt tai, ở nơi sơn cùng hải tận, biết lấy gì báo đáp hồng ân trong muôn một. Trộm mong thỉnh cầu được ban cho một bức ngự dung, rước về hạ quốc, kính cẩn treo tại điện Kính Thiên để thường thường qùi chúc chẳng khác gì được ở bên cạnh hoàng đế để thỏa tấm lòng quyến luyến.

Thế nhưng việc ấy quả là liều lĩnh chưa dám nói ra nên phải giãi bày trước đài [hay thai, tiếng tôn xưng Phúc Khang An] xem có được chăng? Tôi mong mỏi chỉ bảo của ngài không biết chừng nào.(5) 

Như vậy, bức hình mà vua Càn Long ban cho Nguyễn Huệ phải chăng là chân dung của chính ông như lời thỉnh cầu trên đây? Điều đó có thể xảy ra nếu như việc này được Phúc Khang An trình lên, nhất là trong dịp sang Bắc Kinh, vua Quang Trung được vua Càn Long hết sức sủng ái.

Dưới thời Càn Long, họa gia cung đình vẽ rất nhiều, đến nay vẫn còn tồn tại không ít. Xét giao tình và các đối xử của vua Cao Tông với Nguyễn Huệ, việc ban cho một bức ngự dung là điều có thể xảy ra. Việc vua Quang Trung xin một bức chân dung vua Càn Long tuy khá bất thường nhưng nếu đi theo tuần tự những liên hệ giữa hai triều đình trong khoảng gần 2 năm [1789-1790] thì không phải là chuyện lạ.

II. Vua Càn Long sai vẽ hình vua Quang Trung

Nếu quả vua Quang Trung có trình lên để xin hình vua Càn Long đem về treo như nội dung bức thư đã dẫn, việc vua Cao Tông ban cho Nguyễn Huệ một bức ngự dung thì lại là một chuyện hoàn toàn khác hẳn việc ông sai họa sĩ vẽ hình vua Quang Trung.

Theo chính lời vua Quang Trung, trong bài biểu gửi vua Càn Long đề ngày 20 tháng 8 [Mậu Thìn] năm Canh Tuất khi từ biệt để về nước có đoạn như sau:

… xưa nay ngoại phiên được hưởng, thực chưa một ai được tao ngộ như vậy. Hôm nay hoàng thượng lo cho nước thần mới lập, cần phải tạo dựng mối giềng, thế khó có thể ở lại triều được lâu nên giáng ân chỉ, cho phép thần về nước.

[Trước khi ra về] Hoàng thượng gọi thần đến bên ngự toạ, đưa tay vỗ vai, dùng lời ôn tồn phủ dụ. Lại không coi thần dung mạo quê mùa mà cho vẽ hình để treo. Ngước trông lên ơn bệ hạ thương mến như thế, thật là chu đáo khiến thần cảm kích đến rơi nước mắt…(6)

Trước đây, khi nghiên cứu về bức hình Nguyễn Huệ do họa sĩ nhà Thanh vẽ, vì sự bất nhất của tài liệu Việt Nam [đã dẫn ở trên], thực khó xác định vua Quang Trung có được vẽ hình hay chỉ được ban một bức chân dung vua Càn Long. Nay theo chính tờ biểu này, chúng ta biết rằng quả thực nhà Thanh có vẽ hình Nguyễn Huệ để treo [登之圖繪]. Muốn hiểu được “đăng chi đồ hội” là thế nào, cũng cần biết thêm một số chi tiết.

Lịch sử Trung Hoa có nhiều cuộc chiến, được có, thua có. Những chiến thắng thường được triều đình lưu lại sự hiển hách cho hậu thế, thường là trên những bia đá dựng trên lưng rùa. Thanh triều cũng không đi ra khỏi lệ đó nhất là ngoài việc phô trương còn có mục đích răn đe quần chúng đừng có dại dột mà nổi loạn.

Từ giữa thế kỷ XVIII, khi kỹ thuật khắc đồng bản họa của Tây phương du nhập vào Trung Hoa, vua Càn Long liền cho thực hiện nhiều bộ chiến đồ để in ra ban phát cho đại thần, vương công. Ngoài ra, các họa sĩ Âu châu ở trong triều [thường là giáo sĩ Dòng Tên] và các họa sĩ Trung Hoa cũng được lệnh thực hiện một số họa phẩm liên quan đến võ công như bức họa vua Càn Long mặc nhung phục cưỡi ngựa chuẩn bị duyệt binh, những sinh hoạt quân sự hay săn bắn của triều đình.

Bên cạnh đó, một số võ tướng có nhiều công lao trong các chiến dịch lớn cũng được họa hình để trưng bày trong Tử Quang Các(7) như một viện bảo tàng quân sự. Trên những bức chân dung, bên cạnh thường có một tiểu sử ngắn gọn bằng hai thứ tiếng Mãn, Hán nhấn mạnh vào công trạng trong quá khứ.

Thoạt đầu, sau chiến dịch đánh Tân Cương [Xinjiang] có 100 tướng sĩ(8) được họa hình nhưng sau mỗi chiến dịch lại thêm vào một số người nữa và sau cùng toàn bộ có đến 260 bức. Những bức chân dung này gọi là “công thần tượng”. Năm 1900, khi quân của liệt cường chiếm Bắc Kinh sau vụ loạn Quyền Phỉ, Tử Quang Các bị cướp phá nên hầu hết tranh ảnh đã bị thất lạc hay hủy hoại.

Tử Quang Các cũng là nơi mà các sứ thần thường được dẫn vào xem như chính Nguyễn Huệ đã tường thuật trong bức thư gửi cho con là Nguyễn Quang Toản. Về chi tiết Nguyễn Huệ được vẽ hình ngoài lời của chính ông trong bài biểu ghi trên, trong các tài liệu thực lục lại không nhắc đến, có lẽ vì đây là một biến cố nhỏ trong muôn vàn sự kiện khác quan trọng hơn.

Chính vì thế, khi truy tìm chi tiết này, chúng tôi phải tìm hiểu từ những sổ sách thường nhật ít nổi bật hơn và đã tìm ra một số chứng cớ chắc chắn. Theo báo cáo ghi trong bản tổng kê của Như Ý Quán trong Tạo Biện Xứ [cơ quan chế tạo vật dụng trong cung vua] thuộc Nội Vụ Phủ [cơ quan đảm trách toàn bộ chi tiêu và sinh hoạt của hoàng cung] thì “ngày mùng 2 [tháng 10, năm Canh Tuất (1790)] họ có nhận được một áp thiếp [??](9) của Viên Ngoại Lang Phúc Khánh [福慶] nói là ngày 20 tháng 8, [thái giám] Ngõa Lỗ Lý [厄魯里](10) có truyền chỉ cho Mậu Bính Thái [繆炳泰] vẽ ba [3] bức hình bán thân [半身臉像- bán thân kiểm tượng] Nguyễn Quang Bình nước An Nam và lệnh đã được thi hành” (11).

Cũng ngày đó, một áp thiếp khác cũng do Phúc Khánh gửi đến nói rằng “ngày mùng 8 tháng 9 Mậu Cần Điện(12) [懋勤殿] giao cho hai [2] bức hình bán thân của Nguyễn Quang Bình nước An Nam, truyền chỉ giao lại cho Như Ý Quán để làm trục treo và đã thi hành”.

Hai [2] thanh gỗ sam [một loại thông], dài ba [3] thước, vuông tám [8] phân

Hai [2] thanh dưới, dài ba [3] thước, ngang một [1] tấc, tám [8] phân

Hai [2] đôi đầu trục bằng tử đàn, dài hai [2] tấc, ngang một [1] tấc sáu [6] phân.(13)

Đến ngày 17 tháng 11 [âm lịch] Phúc Khánh lại gửi áp thiếp đến Như Ý Quán nói rằng “ngày 17 tháng 10 Mậu Cần Điện đã giao cho một bûác hình bán thân của Nguyễn Quang Bình và truyền chỉ cho Y Lan Thái(14) [伊蘭泰] thuộc Khải Tường Cung vẽ cấp tốc thêm vào vài hạt châu và đã thi hành”. (15)

Cũng ngày 17 tháng 11 Như Ý Quán lại nhận lệnh từ Phúc Khánh nói rằng “ngày 23 tháng 10 [năm Canh Tuất], Mậu Cần Điện giao cho hai cuộn tranh treo [quải trục nhị trục] vẽ bán thân An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình và truyền chỉ may hai túi thêu cùng màu bằng lụa An Bạch và đã thi hành”.

Như vậy, ít nhất cũng có ba [3] bức hình vua Quang Trung được vẽ, trong đó một bức vẽ theo quan phục nhà Thanh [với chuỗi triều châu như lệnh vua Càn Long]. Suy ra, hai bức đầu có lẽ vẽ theo phẩm phục nước ta để ban cho Nguyễn Huệ. Vua Càn Long là người rất tinh minh, không khi nào lại gửi cho vua Quang Trung một chân dung mặc y phục Mãn Thanh để ông phải khó xử.

Xét những tài liệu trên, chúng ta thấy cả hai việc đều có nguyên uỷ. Vua Quang Trung quả có nhờ Phúc Khang An tâu lên để xin một bức hình vua Càn Long, việc đó tiến hành ra sao chúng ta không rõ vì trong danh sách tặng phẩm không thấy đề cập đến việc này. Nếu có, chắc chắn đây là một đại sự và phải được nhắc đến trong đáng án của Thanh triều.

Còn việc vua Càn Long sai thợ vẽ hình vua Quang Trung thì hoàn toàn có thật. Chúng ta lại biết cả tên họa gia thực hiện là Mậu Bính Thái và một họa sĩ phụ tá là Y Lan Thái. Hai ông này đều là hoạ sĩ có tiếng trong cung đời Thanh Cao Tông.

Công tác này được thực hiện trong khoảng từ ngày 20 tháng 8 năm Canh Tuất và hoàn tất vào khoảng 23 tháng 10 cùng năm sau khi đã gắn trục bằng gỗ sam, hai đầu bằng tử đàn. Cũng nên biết thêm, ngày 20 tháng 8 chính là ngày vua Quang Trung tâu với vua Thanh xin từ biệt để về nước. Như vậy đúng như sử nước ta đã chép, việc hoạ hình là một biệt ân trước khi phái đoàn Đại Việt trở về và bức hình chỉ hoàn tất khi Nguyễn Huệ đã rời kinh đô được 2 tháng. Tuy khi đó còn trên đường về Thăng Long nhưng không biết vua Càn Long có cho người đem hoả tốc đến cho vua Quang Trung không?

Về nguyên tắc và tiến trình vẽ chân dung thời nhà Thanh thì thường được hoạ sĩ chính vẽ nháp khuôn mặt và bố cục toàn cảnh, sau đócác phụ tá sẽ vẽ thêm y phục, tay chân và các trang trí. Mỗi bức tranh thường được trình lên vua Càn Long nhiều lần để ông xem có giống người thực không và thêm bớt một vài chi tiết. Do đó, những bức vẽ đời Thanh không phải tưởng tượng hay hư cấu mà truyền thần thật. Nội dung bức hình bán thân thường có kích thước tỉ lệ 3×4 [chưa kể phần trống để đề chữ Hán và Mãn].

Theo lẽ thường, nếu trục dài 3 thước [đời Thanh 1 thước là 34,5 cm, vậy 3 thước vào khoảng 1 mét ngày nay] thì bề ngang tấm hình cũng khoảng này [tuy bức hoạ thường hẹp hơn] và bức tranh phải chừng 1,8m x 1m như khuôn khổ dành cho những nhân vật quan trọng. Đây là kích thước phổ thông nhất chúng tôi thấy trong các bức vẽ chân dung cung đình đời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long. Tấm hình này ngoài bức ban cho vua Quang Trung, những bức còn lại có thể được treo trong Tử Quang Các cùng với bộ An Nam Chiến Đồ [6 bức] để phô trương chiến thắng “mà không cần dụng binh” như vua Càn Long vẫn tự hào.

Ngoài bức chân dung vua Quang Trung, một hoạ phẩm khác của nhà Thanh cũng có ông xuất hiện là hoạ sách đại lễ Bát Tuần Khánh Thọ. Bộ hoạ sách này có tên là Vạn Thọ Trường Đồ lên đến gần 300 bức tranh vẽ liên tiếp đoạn đường dài từ Viên Minh Viên đến Tây Hoa Môn.(16) Vua Quang Trung xuất hiện ở ngoại thành Bắc Kinh, cầm đầu các sứ thần và vương công đại thần đón vua Càn Long đi kiệu ngang qua.(17) Vì đồ hội này có tính chất tuyên truyền, cốt ghi lại những sinh hoạt, lễ lạc của kỳ khánh thọ nên chỉ có ý nghĩa sự kiện chứ không phải là một họa phẩm tài liệu ghi nhận chân dung Nguyễn Huệ một cách chính xác. Miêu tả Nguyễn Huệ và sứ bộ nước ta được ghi lại trực tiếp, tại chỗ và cùng thời gian chỉ còn trong nhật ký của phó sứ Triều Tiên Từ Hạo Tu:(18)

…Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam.

… Hôm đứng vào tế ban ở Tịch Nguyệt Đàn nơi điện Thái Hoà mới thấy họ [tức sứ đoàn nước ta] mặc y phục bản quốc. Vua của họ đầu quấn khăn(19), đội mão vàng bảy ngấn,(20) mình mặc long bào bằng gấm màu, đeo đai bằng ngọc trắng. Tòng thần cũng quấn khăn, đội mão đen năm ngấn, thân mặc mãng bào nhưng hoặc màu xanh, hoặc màu tía, đeo đai vàng, hình trên áo bác tạp, lạ lùng trông như phường tuồng(21) khác xa cổ chế nước An Nam.

KẾT LUẬN

Cho tới nay, nhiều học giả và chuyên viên bảo tàng đã và đang tìm cách khôi phục lại những tranh ảnh cất giữ và trưng bày trong Tử Quang Các. Tuy nhiên, sau hơn một nửa thế kỷ binh lửa và các cổ vật cũng bị cướp phá, lấy trộm nhiều lần, số lượng truy tầm được chỉ là một con số rất nhỏ. Theo thống kê mới nhất, có khoảng 65 bức chân dung tướng sĩ đời Thanh còn biết tung tích, khoảng hơn 200 bức khác có ghi nhận trong sử liệu nay không biết ở đâu, có lẽ đã bị hủy hoại.

Bức vẽ chân dung vua Quang Trung chưa ai thấy dấu vết gì và cũng không thấy tài liệu nào đề cập đến. Ngay cả những văn thư đời Tây Sơn gửi sang Trung Hoa nay cũng chỉ còn lác đác đôi ba tờ [bản chính] và thỉnh thoảng có bản sao trong một số sách vở.

Một lý do có thể cũng ảnh hưởng đến số phận của bức vẽ chân dung vua Quang Trung trong cung nhà Thanh là sau khi vua Càn Long qua đời, vua Gia Khánh lên ngôi đã đảo ngược nhiều chính sách, thanh trừng các đại thần trước đây là tâm phúc của vua cha. Trong ngoại giao, đang từ một chính sách mật thiết với nước ta, tương quan Thanh

– Việt bỗng lạnh nhạt hẳn – nếu không nói là thù nghịch – ít nhiều đưa đến sự bại vong của nhà Tây Sơn. Những dấu tích về ưu đãi trong thời Càn Long với vua Quang Trung cũng bị xoá mờ nên hầu như không còn ai biết đến ngoại trừ những lời đồn đãi vô căn cứ trong dã sử.

Tháng 01-2010

N.D.C

Chú thích:

(1)           Đầu thời Dân Quốc, khi nhà Thanh mới bị lật đổ, nhiều họa sĩ đường phố ở Bắc Kinh đã vẽ nhái lại tranh trong cung đem ra bán rất nhiều, hình này cũng nằm trong trường hợp đó.

(1)(2)…及陛辭回國,宣近御榻旁,親撫其肩,慰諭溫存,命畫工繪其刑,賜之… 

(1)Cập bệ từ hồi quốc, tuyên cận ngự tháp bàng, thân phủ kỳ kiên, ủy dụ ôn tồn, mệnh họa công hội kỳ hình, tứ chi. [Quốc Sử Quán triều Nguyễn], quyển XXX, trang 39

(3)           Nguyên văn:

(3)…又薦雄象二匹,清人沿途驛遞勞頓,中外皆知其假而不敢言。迨進京,清帝大喜,以為眞光中的,於入覲時,賜與諸親王因同宴,又加恩并行抱膝,一如家人父子之親。及拜謝歸國,乃命工畫傳神像賜之,恩禮隆厚,誠千古之曠格也。

(3)… hựu tiến hùng tượng nhị thất, Thanh nhân duyên đồ dịch đệ lao đốn, trung ngoại giai tri kỳ giả nhi bất cảm ngôn. Đãi tiến kinh, Thanh đế đại hỉ, dĩ vi chân Quang Trung đích, ư nhập cận thời, tứ dữ chư thân vương nhân đồng yến, hựu gia ân tịnh hành bão tất, nhất như gia nhân phụ tử chi thân. Cập bái tạ quy quốc, nãi mệnh công họa truyền thần tượng tứ chi, ân lễ long hậu, thành thiên cổ chi khoáng cách dã.

(3)(4)入覲時令與諸王同宴。又加恩行抱膝禮,及歸國命工畫御容賜之

(3)(Nguyễn Huệ) nhập cận thời lệnh dữ chư vương đồng yến, hựu gia ân hành bão tất lễ. Cập qui quốc mệnh công họa ngự dung tứ chi … Đặng Xuân Bảng (???), Viện Nghiên cứu Hán Nôm: (Hà Nội: Nxb KHXH, 2000 tr.635 phần bản dịch và tr.642 phần Hán Văn).

(3)Về chi tiết sử quan triều Nguyễn cố tình xuyên tạc, biến đại lễ bão kiến thỉnh an thành lễ bão tất chúng tôi đã trình bày ở một số biên khảo khác.

(5) Nguyên văn

呈和中堂帖請御容呈福公爺帖小番由荒遠入覲。仰蒙大皇帝垂慈。視如家人父子。區區微忱懷。無任歡忭感激之至。自思摩頂放頭。窮海罄山,無可仰答鴻恩於萬一。竊欲籲祈御容一軸。捧歸下國。敬謹恭奉於敬天殿。俾得時時跪祝。如在帝左右。庶孚依依慕戀之忱。惟是事出干冒。未敢擅便。特佈衷曲于台前可否。統憑尊裁感望無既。

Dịch âm

Trình Hòa Trung Đường thiếp thỉnh ngự dung, trình Phúc công gia thiếp

Tiểu phiên do hoang viễn nhập cận. Ngưỡng mông đại hoàng đế thùy từ. Thị như gia nhân phụ tử. Khu khu vi thầm hoài. Vô nhậm hoan biện cảm kích chi chí. Tư tư ma đính phóng đầu. Cùng hải khánh sơn, vô khả ngưỡng đáp hồng ân vạn nhất. Thiết dục dụ kỳ ngự dung nhất bức. Phủng qui hạ quốc. Kính cẩn cung phụng ư Kính Thiên Điện. Tỉ đắc thời thời quị chúc. Như tại đế tả hữu. Thứ phu y y mộ luyến chi thầm. Duy thị sự xuất can mạo. Vị cảm thiện tiện. Đặc bố trung khúc vu thai tiền khả phủ. Thống bằng tôn tài cảm vọng vô ký. Đại Nam Quốc Thư Tập, Quyển VI [A.144 Paris EFEO MF II.85]

(6) 古今外藩受知。實未有如臣之遇也。今仰奉宸衷垂念臣國初創。締造方殷。勢難久留朝侍。旋降恩旨。賜之回國。宣臣近御座旁。親撫其肩。諭以溫語。再蒙不棄陋容。登之圖繪。仰惟聖慈眷憐。諄懇周到。臣感激零涕。

… cổ kim ngoại phiên thụ tri. Thực vị hữu như thần chi ngộ dã. Kim ngưỡng phụng thần trung thuỳ niệm thần quốc sơ sáng. Đề tạo phương ân. Thế nan cửu lưu triều thị. Toàn giáng ân chỉ. Tứ chi hồi quốc. Tuyên thần cận ngự tọa bàng. Thân phủ kỳ kiên. Dụ dĩ ôn ngữ. Tái mông bất khí lậu dung. Đăng chi đồ hội. Ngưỡng duy thánh từ quyến lân. Truân khẩn chu đáo. Thần cảm kích linh thế. Khâm Định An Nam Kỷ Lược, quyển 29 tr.24

(7) Tử Quang Các lúc đầu chỉ là một sảnh đường dùng để duyệt binh, thi bắn cung có treo các chiến đồ. Năm 1760, vua Càn Long cho trùng tu thành một dinh thự lớn dùng làm nơi tiếp đón các phiên thuộc như để thị uy. Bên cạnh Tử Quang Các còn có Võ Thắng Điện để trưng bày các chiến lợi phẩm và các bia đá ca tụng võ công.

(8) Chia thành thượng, hạ mỗi loại 50 bức. Chính vua Cao Tông đề từ cho 50 người trên còn các danh thần đề từ cho 50 người dưới.

 (9) Thư có chữ ký và đóng dấu

(10) Mậu Bính Thái [1744-1808] là một văn nhân người Triết Giang, được Phúc Trường An tiến cử nhập cung làm họa gia. Ông chuyên vẽ chân dung và được coi là hoạ gia vẽ người nổi tiếng nhất đời Thanh. Theo Cao Dương [高陽] trong Mai Khâu Sinh Tử Ma Da Mộng [梅丘生死摩耶夢]  (Đài Bắc: Liên Kinh, 2004, tr. 102-3) thì Mậu Bính Thái là người duy nhất trong mấy chục hoạ gia cung đình được vua Cao Tông khen ngợi và luôn luôn cho đi theo mỗi khi ra ngoài. Có đến vài chục bức chân dung trong Tử Quang Các do ông vẽ. 1

(11) Thanh Cung Nội Vụ Phủ Tạo Biện Xứ Đáng Án Tổng Hối, quyển 52 [1790-1791] tr.26

(12) Là nơi nhà vua thường ngồi đọc sách hay phê duyệt văn thư

(13) Thanh Cung Nội Vụ Phủ Tạo Biện Xứ Đáng Án Tổng Hối, quyển 52 [1790-1791] tr. 30

(14) Họa sĩ cung đình đời Càn Long, nổi tiếng với bức Hải Yến Đường vẽ cung điện tại Viên Minh Viên

(15) Thanh Cung Nội Vụ Phủ Tạo Biện Xứ Đáng Án Tổng Hối, quyển 52 [1790-1791] tr. 34

(16) Khúc Diên Quân [chủ biên]. Trung Quốc Thanh Đại Cung Đình Bản Họa: Bát Tuần Vạn Thọ Thịnh Điển, quyển 34 (Hợp Phì: An Huy Mỹ Thuật, 2002)

(17) Bức tranh có một tấm bia vẽ ngay bên cạnh trên đề:

安南國王阮光平及蒙古王公朝鮮緬甸南掌各國使臣恭迎萬夀來京於此瞻覲

An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình cập Mông Cổ vương công, Triều Tiên, Miến Điện, Nam Chưởng các quốc sứ thần cung nghinh vạn thọ lai kinh ư thử chiêm cận.

Trong hình vua Quang Trung quì đón hàng đầu tiên, đằng sau là sứ thần Triều Tiên và lễ quan, bên trái là các thân vương và người trong hoàng tộc [với bổ phục hình tròn, đeo triều châu], bên phải là các đại thần nhà Thanh [với bổ phục hình vuông, không đeo triều châu]. Vua Càn Long đi kiệu [kiên dư] do 28 thị vệ [hay thái giám] khiêng trên vai, chung quanh có ngự lâm quân và các cận thần theo hầu. Theo lễ tục nhà Thanh dù cho hoàng thái hậu [mẹ ruột vua] ra đón hoàng đế cũng phải quì chứ không đứng.

 (18) Từ Hạo Tu (徐浩修): Yên Hành Kỷ (燕行紀) Tuyển Tập V (Soul: Minjok Munhwa Ch’ujinhoe, 1976) quyển II, phần nguyên văn chữ Hán.

 (19) Nguyên văn đầu tạp cương cân頭匝綱巾

 (20) Thất lương kim quan七梁金冠. Theo sự tra cứu của chúng tôi, thất lương kim quan là mũ có bảy đường ngấn gồ lên, bắt chước quan phục đời Nguyên, Minh dành cho bậc thân vương hay hoàng tử. Cũng có thể vua Quang Trung mặc lối này để khỏi vượt quá phận phiên vưúng khi qua Bắc Kinh nhưng trong nước thì dùng y phục khác.

(21) Xương ưu倡優

Nguồn bài đăng

0