25/04/2018, 22:11

Tương tư – một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậm chất thôn quê và chất dân gian, Trong...

Đọc thêm: Tương Tư – Nguyễn Bính – Tương tư – một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậm chất thôn quê và chất dân gian. Trong phong trào Thơ mơi, mỗi nhà thơ đã góp mặt bằng một phong cách riêng. Nếu người ta thấy một Xuân Diệu “Tây “quá, ...

Đọc thêm: Tương Tư – Nguyễn Bính – Tương tư – một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậm chất thôn quê và chất dân gian. Trong phong trào Thơ mơi, mỗi nhà thơ đã góp mặt bằng một phong cách riêng. Nếu người ta thấy một Xuân Diệu “Tây “quá, “tân kì” quá thì người ta lại tìm thấy ở cái tôi thơ mới Nguyễn Bính một người “nhà quê

Tương tư – một trạng thái tâm hồn vừa phổ quát vừa riêng biệt; một cái tôi thơ mới mang đậin chất thôn quê và chất dân gian

BÀI LÀM

Trong phong trào Thơ mơi, mỗi nhà thơ đã góp mặt bằng một phong cách riêng. Nếu người ta thấy một Xuân Diệu “Tây “quá, “tân kì” quá thì người ta lại tìm thấy ở cái tôi thơ mới Nguyễn Bính một người “nhà quê”. “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta…” (Hoài Thanh- Thi nhân Việt Nam). Chân quê, hồn quê, tình quê, nhà quê… là những danh từ quen thuộc khi nói đến hồn thơ Nguyễn Bính. Tương tư,là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ đó. Nhà thơ vừa nâng trạng thái tương tư lên tầm phổ quát lại vừa thể hiện những nét riêng biệt, độc đáo mang đậm phong cách thơ

Nguyễn Bính là một nhà thơ lớn của thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì 1932- 1945. Tiếng thơ của ông góp vào thi đàn Thơ mới một phong cách riêng, một cái hay cái đẹp riêng có sức lôi cuốn hấp dẫn riêng đối với người đọc.

Nói đến hồn thơ Nguyễn Bính là nói đến một Hồn thơ “chân quê”nhưng trước sau ông vẫn là một nhà thơ mới. Nguyễn Bính đã đánh thức dậy “hồn quê” bởi sự hòa điệu giữa cảnh quê- người quê- tình quê và lời quê- giọng quê trong thơ. Bước vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính như bước vào không gian làng quê và thời gian cổ tích, ở đó người đọc bắt gặp những cánh, những người “chính quê” và chợt lắng nghe giọng tâm tình đậm đà sắc thái dân gian. Tuy nhiên, “ai bảo người không nhà quê hẳn ?” bởi “dấu thị thành chẳng những mang trên quần áo, Mà còn in vào tận trong tâm hồn” (Hoài Thanh). Cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính với những “thú giang hồ”, những bi kịch tình yêu đơn phương, những nỗi buồn, sự cô đơn… chính là cảm xúc, tâm trạng của cái tôi thơ mới mang ý thức, khát vọng cả nhân “khát vọng được thành thực… khẩn thiết đến đau đớn” (Hoài Thanh).

Một dấu ấn sâu đậm góp phần tạo nên phong cách thơ Nguyễn Bính là thể thơ lục bát. Trong phong trào Thơ mới, nếu lục bát của Huy Cận cổ điển hơn thì lục bát của Nguyễn Bính lại dân gian hơn. Nguyễn Bính được xem là thi sĩ có sở trường, thậm chí là có bản năng về lục bát. Ông viết lục bát nhanh và dễ như lời nói thường. Dáng điệu những câu lục bát của ông vừa rất thời đại vừa phảng phất ca dao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tố chức lời thơ

“Tương tư” là nỗi nhớ nhau trong tình yêu đôi lứa. Tâm lí tương tư rất phức tap, không chỉ có nhớ nhung, thương cảm mà còn đẩy những ước ao, có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều mà còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lời nói nút mẻ vòng vo, lấp lửng nữa. Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống động nhất của tình yêu. Ai đã yêu mà chẳng tương tư.

Nỗi tương tư của nhân vật trữ tình ở bài thơ này của Nguyễn Bính cũng vậy.

Nhân vật bộc lộ tâm trạng tương tư là chàng trai thôn Đoài. Đối tượng mà chàng tương tư là cô gái thôn Đông. “Hai thôn chung lại một làng;” nhưng nổi tương tư thì diệu vợi, da diết. Nhớ nhung là trạng thái cảm xúc chủ đạo:

Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương Tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Chàng nôn nao mơ tưởng :

Bao giờ bến mới cập đò

Hoa khê các , bướm giang hồ gặp nhau

Rồi ước vọng xa xôi :

Nhà em có một giàn giầu .

Nhà anh có một hàng cau liên phòng

Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông

Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào.

Tất cả những trạng thái cảm xúc trong nỗi tương tư của chàng trai được diễn biến theo lối đan cài, lồng ghép và chuyên hóa sang nhau rất tự nhiên, chân thực. Trong nhớ thương có khao khát, khao khát cháy bỏng trở thành ước vọng xa xôi mà thường trực. Ước vọng, khao khát, nhớ thương, mong ngóng khiến lòng yêu cảm thấy băn khoan, tưởng tượng xa xôi để rồi thở than, hòn trách… Bấy nhiêu trạng thái cảm xúc dồn nén thường trực khiên chàng trai cảm thấy đứng ngói không yên trái tim yêu thương, mong nhớ đã thuộc về người, nỗi tương tư bao trùm cá không gian và thời gian.

Tâm lí tương tư rất phức tạp, không chỉ có nhớ nhung, thương cảm mà còn đầy những ước ao, có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều mà còn có cả những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng nữa.

Bề ngoài, chàng trai trách móc cô gái là điều vô lí.Trách người ta sao được khi người chủ động phải là mình. Người ta có yêu mình đi nữa cũng không thể chủ động tìm đến bày tỏ tình yêu. Mình thụ động ngồi chờ đợi lại còn trách móc.

Nhưng trong bề sâu, lời trách móc của chàng trai lại không hề vô lý. Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm chứ không câu nệ vào thực tế. Nhà thơ phải đặt chàng trai vào vai trò thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người trai quê như thế. Thứ hai, lối trách này không phải vì ghét, không giống như sự quy kết trách nhiệm, đổ lỗi thông thường mà trách vì yêu. Do quá mong nhớ, do bị nỗi nhớ mong giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra “hèm ngược trách xuôi” thổi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chí là một cách bộc bạch tình yêu- “trách yêu”.

Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn tả thời gian. Nổi bật lên là việc dùng cách ngắt nhịp, cách điệp, giọng kế lể và việc tả cảnh ngụ tình, dùng sự biến đổi không gian để biểu hiện thời gian. Ví như trong cặp câu: Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh nhuộm đã thành đâu lá vàng.

Câu lục : Ngày qua ngày lại qua ngày

Nhịp 2/2/2 thông thường trong lục bát truyền thống đã được ngắt thành nhịp 3/3 (Ngày qua ngụy/ lại qua ngày), ý và lời về sau lập lại vế trước. Cách ngắt nhịp này khiến chữ “lại” ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chập, ngày mới chỉ là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán, vô vọng. Cả việc ngắt nhịp lặp vế câu và nốt nhân giọng ở chữ “lại” khiến cho giọng thơ như lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mòn mỏi.

Câu bát : Lá xanh nhuộm đã Thành cây lá vàng

Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng tinh tế, ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp, sốt ruột, nhưng mới qua lời kể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn là thời gian hiện lên qua việc chuyển màu : “lá xanh” chuyển thành “lằ vàng”. Ngày anh bắt đầu đợi chồi, cây hãy còn xanh, vây mà bây giờ, lá xanh đã vàng cả rồi. Thời gian thù địch với tâm trạng. Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề. Tâm trạng càng mỏi mòn, thời gian càng chậm chạp lê thê. Điều tinh tế nhất là chữ “nhuộm”. Thứ nhất, chữ ”nhuộm” diễn tà được thời gian chậm chạp. Có thể so sánh với chữ “tihuốm” trong câu Kiểu của Nguyễn Du: “Rừng phong thu (lá nhuốm màu lá vàng”. “Nhuốm” nói đến sự biến đổi sắc màu mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tít  sắc màu sự vật chủ yếu biến đổi ở bể mặt, bể ngoài. Còn “nhuộm” có vẻ đã hoàn tất. Thời gian dài tới mức đủ để cho màu này chuyển hẳn sang màu khác, hoàn toàn định hình rỗi. Thứ hai. chữ “nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm ? Chủ thê hàm ẩn. Không hẳn thời gian, cũng không hần là sự biến chuyển nội tại của cây lá mà chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây kia vòng lia. Kẻ tương tư và cái cây ấy có môi tương giao thật kì lạ. Ờ đây vừa là nhân chứng của mối tương tư, vừa là đồng minh của kẻ tương tư,là nạn nhân của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của nỗi tương tư đó. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư. Lối thể hiện như vậy thật tinh tế, ý nhị.

Tương tư vừa nâng trạng thái tâm hồn của nhân vật trữ tình lên tầm phổ quát đồng thời lại rất riêng biệt. Mối duyên quê của lứa đôi trong Tương tư đã hòa quyện trong cảnh quê khiến cho nỗi tương tư của chàng trai và mối nhân duyên của lứa đôi mang đậm nét chân quê. Những địa danh, cành vật, cây cỏ… (thôn Đoài, thôn Đông lá,con đò,  thuộc về chốn quê bao đời vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí còn là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.

Không chí đậm chất thôn quê, Tương tư còn đậm chất dân gian. Hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi ngớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát lên thành ”Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa gắn với hai chủ thể, hai đối tượng: người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo cơ sở cho thủ pháp nhân hóa : “Thôn Đoài ngồi nhớ Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí: khi tương tư thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể như cũng nhuốm nỗi tương tư ấy. Vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đẩy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhớ nhung.

Hình ảnh trầu – cau cũng là hình ảnh đậm chất dân gian và giàu ý nghĩa. Đây không chỉ là hình ảnh cây lá thôn quê mà còn là hình ảnh chứa câu chuyện tình yêu đôi lứa chân -quê. Sâu xa hơn, hình ảnh trầu cay, vôi nồng, sắc đỏ gợi nhớ câu chuyên Sự tích trầu cau, gợi nhớ mối tình chung thủy, thắm thiết. Đặt trong nỗi tương tư, trầu cau như cũng ngẩn ngơ : “Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?”. Thêm vào đó tác giả sử dụng lối biên âm của địa phương nồng thôn một số vùng đồng bằng Bắc Bộ (giầu- cau) càng làm cho mối tình quê đậm chất quê và chất dân gian.

Ngoài ra, trong bài thơ ta còn thấy Nguyễn Bính không biết do vô tình hay hữu ý đã tạo nên cả một hệ thống cặp đôi: thôn Đoài – thôn Đông; một người- một người : tôi- nàng; thôn- làng; bên ấy- bên này; lá xanh- lá vàng; bên – đó; hoa- hướng; … Trong thực tế; những hình ảnh này luôn luôn đi với nhau, là hình bóng của nhau và có lúc ở trong nhau, nói đến hình ảnh này khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh kia và ngược lại. Trong văn học, nhiều hình ảnh cũng đã được sử dụng với ý nghĩa tượng trưng cho tình yêu đôi lứa như bến và thuyền, hoa và bướm đặc biệt là trầu và cau, ở đây, Nguyễn Bính mở rộng liên tường, tạo thành cả một hệ thống các hình ảnh cặp đôi để diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của khái niệm tương tư và tâm trạng của người tương tư đồng thời thể hiện khát vọng có đôi, có lứa, khát vọng có được nhau trong hạnh phúc lứa đôi.

Khát vọng tình yêu được biểu hiện qua Tương tư là khát vọng của cái tôi cá nhân thời thơ mới. Bài thơ mang vẻ đẹp của một bài thơ mới giàu chất dân gian. Trong quá trình tìm về với mạch nguồn ca dao truyền thống, những bài  thơ lục bát của Nguyễn Bính mang một vẻ đẹp riêng, có sức mê hoặc và đế lại mối “tương tư” trong lòng người yêu thơ.

nguyễn phương

0 chủ đề

23913 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0